Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Nhạc Sử : Âm Nhạc Cải Cách


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 14
Date:
Nhạc Sử : Âm Nhạc Cải Cách


Thời Kỳ Thành Lập
(1938-45)



Âm nhạc Cải Cách

Sự hiện diện rất hùng biện của những ''bài ta theo điệu tây'' trong thập niên 30 đă chứng tỏ tuổi trẻ Việt Nam lúc đó không c̣n rung động trước ḍng nhạc cổ truyền đang ở trong thời kỳ suy nhược nhất của nó. Phong trào ''bài ta theo điệu tây'' chưa được coi là sự h́nh thành của Tân Nhạc Việt Nam nhưng nó là động cơ thúc đẩy tuổi trẻ sáng tạo một ḍng nhạc mới phù hợp với nhu cầu của thời đại. Đông đảo thanh niên nam nữ lúc đó cũng đă bắt đầu học nhạc lư, học sử dụng các nhạc cụ Tây Phương rồi. Một nhạc viện do người Pháp mở ra từ năm 1927 lấy tên là CONSERVATOIRE FRANCAIS d'EXTREME-ORIENT, cũng đă đào tạo được năm bẩy nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên, học theo đường lối âm nhạc cổ điển Âu Tây là Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Giệp, Nguyễn Hữu Hiếu, Phạm Văn Nhường... Trường nhạc tuy có cái tên rất kêu, nhưng cũng chỉ dạy cho học sinh vài môn như nhạc lư, kéo violon, violoncelle, đánh piano chứ không dạy sáng tác, lịch sử âm nhạc, lư luận âm nhạc và nhất là không dạy các môn hoà âm, đối âm, phối khí, chỉ huy giàn nhạc. Sau ba năm học ở trường này (nhạc viện đóng cửa vào năm 1930), mấy ông nhạc sĩ tiên phong kia cũng đă khởi sự hành nghề tại một nhà hàng lớn nhất Hà Nội là TAVERNE ROYALE, nằm ngay trước mặt hồ Hoàn Kiếm.



Nguyễn Xuân Khoát

Ở các thành phố lớn, các hội "Ái Nhạc" (Philharmonique) cũng được thành lập để truyền bá nhạc cổ điển Tây Phương. Vơ Đức Thu là nhạc sĩ tốt nghiệp về piano ở Hội PHILHARMONIQUE Saigon. Mặt khác, các nhạc sĩ trẻ, hoàn toàn là những tài tử (amateur) cũng đă tự học nhạc, đă viết ra những bản nhạc đầu tay của ḿnh, nhưng chưa dám đưa ra trước công chúng, mới chỉ tŕnh bày cho nhau nghe trong những buổi họp mặt có tính chất salon littéraire, coi đó như là sự phản ứng trước phong trào ''bài ta theo điệu tây'' mà họ cho là đầu cua tai nheo, ngoại lai, chắp vá.



Vơ Đức Thu, Phạm Duy, Phạm Đ́nh Chương
(H́nh chụp năm 1951 tại Saigon)


Đầu năm 1938 phải được coi như một mốc điểm lớn của Âm nhạc Việt Nam. Sau thời gian chuẩn bị, bây giờ có thể coi như nhạc việt loại mới được thành h́nh. Một thanh niên gốc Huế tên là Nguyễn Văn Tuyên, ngụ tại Thị Nghè, ṭng sự tại một công sở ở Saigon, có giọng hát hay, đă thử thách soạn mấy bài hát mới và được bạn bè hoan nghênh, rồi được một công chức kiêm thi sĩ làm việc cho Đài RADIO INDOCHINE là Nguyễn Văn Cổn hết ḷng giúp đỡ bằng cách đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên phổ nhạc, hoặc soạn lời ca cho những bản nhạc của Nguyễn Văn Tuyên.



Đài Radio Indochine

Sau nữa, Nguyễn Văn Cổn lại c̣n giới thiệu Nguyễn Văn Tuyên với Thống Đốc Nam Kỳ hồi đó là Pagès để xin được trợ cấp để -- theo tin báo chí lúc đó -- đi "diễn thuyết về âm nhạc cải cách" tại các thành phố lớn như Huế, Hải Pḥng, Hà Nội... Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là ''âm nhạc cải cách'' (musique renovée).



Nguyễn Văn Tuyên
(H́nh chụp năm 1995 tại Saigon)


Tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên tới Hội TRÍ TRI ở Hà Nội và Hội TRÍ TRI ở Hải Pḥng để làm công việc ông gọi là "vận động cho âm nhac cải cách". Ba bài được hát lên trong buổi vận động này là : Bông CúcVàng, Anh Hùng Ca Một Kiếp Hoa. Theo lời kể lại của nhạc sĩ Lê Thương, buổi hát ở Hà Nội không thành công v́ "...cử toạ đông đảo, quá ồn ào, làm mất trật tự. Giọng Huế của ông hơi khó nghe. C̣n có cả sự phản ứng của nhiều thanh niên cho rằng việc hô hào của ông Tuyên là thừa, v́ loại nhạc mà ông gọi là cải cách đó, ở ngoài Bắc đă có rồi. Buổi tŕnh diễn ở Hải Pḥng thành công hơn, nhưng chỉ có 20 người tới nghe. Ông Tuyên c̣n tŕnh bày một lần nữa tại rạp chiếu bóng Palace nhân kỳ hội của Trường nữ học HOÀI ĐỨC ..." (trích trong bài viết về Tân Nhạc, in trong nhạc tập NhạcTiền Chiến -- nhà xuất bản KẺ SĨ, Saigon 1970)

Nguyễn Văn Tuyên có thể không thành công trong những buổi ''vận động cho âm nhạc cải cách'' ở Bắc Việt v́ giọng nói khó nghe hay v́ hai bài hát không được hấp dẫn lắm, nhưng theo tôi, hành động của ông th́ không thể gọi là thừa. Bởi v́ trước khi ông công khai ra mắt công chúng tại các thành phố lớn ở ba miền Trung Nam Bắc, chưa có một cá nhân hay một nhóm nhạc sĩ nào gây được sự chú ư của mọi người về sự thử thách của họ trong phạm vi âm nhạc mới, khả dĩ có thể thay thế được cái phong trào gọi là ''bài ta theo điệu tây''. Bây giờ việc làm của Nguyễn Văn Tuyên được báo chí tường thuật rồi được mọi người bàn ra tán vào. Tuần báo có thế lực nhất lúc đó là tờ NGÀY NAY th́ hết ḷng ủng hộ, cho đăng tải bài hát của Nguyễn Văn Tuyên trong số báo 122 ra ngày 7-8-1938. Từ đó, báo này luôn luôn đăng những bản nhạc mới của những nhà soạn nhạc mới. Một tờ báo chuyên về âm nhạc cũng sẽ ra đời để cổ vơ cho loại nhạc mới. Đó là tờ Nhạc Việt.


Lớp Người Tiền Phong
Như diều gặp gió, lớp người tiên phong của Tân Nhạc bấy lâu nay c̣n hoạt động một cách dụt dè, bây giờ họ đă góp gió thành băo và đă làm nên một phong trào âm nhạc lớn, phong trào nhạc mới mà Nguyễn Văn Tuyên vừa đi làm cuộc vận động vào tháng ba 1938 này.

Chắc chắn là trước khi Nguyễn Văn Tuyên đi hô hào nhạc cải cách vào tháng 3 năm 1938 đó, một số nhạc sĩ chuyên nghiệp hay mới chỉ là nhạc sĩ tài tử mà thôi, cũng đă có những thử thách về sáng tác và tŕnh diễn những bài hát mà họ đă soạn ra từ những năm 1936-37. Cũng như Nguyễn Văn Tuyên, họ đang muốn làm một cuộc cải cách âm nhạc nhưng chưa ai gây được một phong trào nào lớn trong quần chúng cả.

Ở Hà Nội, đă khởi sự có những lớp dạy nhạc theo đường lối Tây Phương. Phạm Đăng Hinh là người tốt nghiệp về violon ở ngoại quốc, mở lớp dạy đàn và đă soạn một bài hát kỷ niệm những ngày ông kéo đàn tại một hộp đêm ở Hồng Kông nhan đề Đám Mây Hàng (sau này trở thành bài Cám Dỗ, được dùng trong một trong những cuốn phim đầu tiên của Việt Nam là Trận Phong Ba). Lớp nhạc Phạm Đăng Hinh đă đào tạo ra Hoàng Gia Lịnh, người nay mai sẽ soạn ra một trong những bài ca yêu nước đầu tiên của thời đại là bài Việt Nam Bất Diệt.

Một ông thầy dạy nhạc khác ở Hà Nội là Trần Quang Ngọc th́ đă viết ra một bài hát nhan đề Đường Trường, có thể được coi như bài hành khúc đầu tiên của Tân Nhạc.

V́ nhà cầm quyền Pháp không mở lại trường dạy nhạc là CONSERVATOIRE FRANCAIS d'EXTREME-ORIENT nữa cho nên, trước sự nẩy nở của phong trào âm nhạc cải cách, có hai tổ chức đào tạo nhạc sĩ ra đời. Đó là Hội Khuyến Nhạc mà người đứng đầu là Nguyễn Văn Giệp và Nhạc Đường Học Xá của Lưu Quang Duyệt.

Hội Khuyến Nhạc được thành lập với những hội viên như vĩ cầm gia Nguyễn Văn Giệp, dương cầm gia Nguyễn Hữu Hiếu và những người rất yêu nhạc như Nguyễn Xuân Tống, Nguyễn Văn Long v.v... Có khá nhiều thanh niên tới học nhạc. Theo Thẩm Oánh, số tiền học nhạc là một hào một bài. Nguyễn Đức Toàn, về sau là tác giả của nhiều bài hát nổi tiếng, đă học nhạc tại Hội Khuyến Nhạc này.

Nhạc Đường Học Xá của Lưu Quang Duyệt là một ngôi trường nhạc nho nhỏ ở đường Mongrand, Hà Nội. Ông Duyệt là một vị tu xuất từ nhà ḍng (nên được gọi ''Bộ'' Duyệt) dạy violon và nhạc lư cho học sinh. Xuất thân từ học xá này là một nhạc sĩ trẻ tuổi tên là Tu Mi, tác giả của một bài hát sau này khá phổ thông là bài Tan Tác. Thẩm Oánh là người cộng tác chặt chẽ với cả hai tổ chức Khuyến Nhạc và Nhạc Đường Học Xá.

Mặt khác, có những người trẻ, tự học nhạc Tây Phương, rồi khởi sự soạn nhạc và thường hội họp với nhau để hoà đàn, để thảo luận về âm nhạc và đưa ra những thử thách của ḿnh. Ngoài những sinh hoạt có tính chất ''salon'' ra, họ cũng thỉnh thoảng ra mắt khán giả trong phạm vi hội hè ở nhà trường hay trong những buổi phụ diễn chiếu bóng để làm việc nghĩa. Ngay từ 1937, ho cũng đă thành lập nhóm hẳn ḥi rồi, dù tổ chức c̣n lỏng lẻo. Đó là nhóm MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly) gồm có Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường... và nhóm TRICEA gồm có Văn Chung, Lê Yên, Dzoăn Mẫn, Phạm Ngữ...

Cũng c̣n phải kể tới những nhạc sĩ trẻ ở Hà Nội và không thuộc nhóm nào cả, nhưng tác phẩm sẽ đi vào nhạc sử Việt Nam, chẳng hạn Lương Ngọc Châu, người chơi vỹ cầm nổi tiếng. Vào cuối thập niên 30, anh hăy c̣n là một sinh viên trường Bưởi. Trong những ngày hội cuối năm của trường này, thường có tổ chức nhạc hội. Lương Ngọc Châu soạn ra một số bài hát để dùng trong những Ca Cảnh, đó là những ca khúc có tính chất dă sử như Một Ra Đi Là Không Trở Về, Bóng Người Núi Lam, Huyền Công Chúa...

Nguyễn Xuân Khoát th́ đă hành nghề nhạc công tại một nhà hàng sang trọng và đă phổ nhạc những bài thơ của Thế Lữ như Hồn Xuân, Chờ Đợi B́nh Minh , hai bài hát này cũng đă được đăng trên báo NGÀY NAY vào cuối năm 1938, nghĩa là được soạn ra trước hay đồng thời với những nhạc phẩm của Nguyễn Văn Tuyên.

Ở Hải Pḥng, trước khi Nguyễn Văn Tuyên bắn phát súng đầu tiên để mở màn cho âm nhạc cải cách th́ Lê Thương, Hoàng Quư, Phạm Ngữ, Hoàng Phú (sau này đổi tên là Tô Vũ), Canh Thân (tức Tino Thân), Văn Trang, Văn Cao... cũng đă có những sinh hoạt về nhạc mới rồi. Đă có sáng tác, đă có tŕnh diễn, những vẫn chỉ là những sinh hoạt lẻ tẻ, chưa thành phong trào lớn.

Ở Nam Định, các nhạc sĩ trẻ như Đặng Thế Phong, Bùi Công Kỳ, Hoàng Trọng, Đan Thọ... cũng vô h́nh trung trở thành một nhóm tài tử và sẽ cung cấp cho nhạc sử Việt Nam nhiều nhạc phẩm bất hủ.



Bùi Công Kỳ và Phạm Duy
(H́nh chụp năm 1945 tại Huế)

Ở Huế, Tourane (Đà Năng) và Faifoo (Hội An) th́ đă có những nhạc sĩ tài tử như Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, La Hối... đang chuẩn bị để đẩy mạnh phong trào âm nhạc cải cách do Nguyễn Văn Tuyên vừa đề xướng.



Ở Quảng Ngăi th́ có Vân Đông và Tŕnh (chỉ nhớ tên, không nhớ họ)...



Vân Đông

C̣n ở Saigon, ngoài Nguyễn Văn Tuyên và Nguyễn Văn Cổn ra, có thêm nhạc sĩ violin Jean Tịnh, cũng là nhân viên của Đài Phát Thanh RADIO INDOCHINE và là nhạc trưởng của ban nhạc lấy tên là B̀NH MINH, trong đó có Paul Báu, bạn đồng nghiệp của tôi trong gánh hát Cải Lương ĐỨC HUY và là người dạy tôi đánh đàn guitare.



Jean Tịnh
(H́nh chụp năm 1995 tại Saigon)


Cũng có thêm vài người trong Hội SAMIPIC (Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể Dục) muốn sáng tạo một nền âm nhạc Việt Nam mới, theo nhạc lư Tây Phương... Đó là Thái Thị Liên, người đầu tiên dùng những khúc điệu cổ như để soạn thành những cầm tấu khúc cho piano... Đó là Vơ Đức Thu với cái tên Charles Thu, cũng soạn nhạc cho piano với bản Việt Nam Tân Điệu... Đó c̣n là Phạm Công Nhiều với bản T́nh Hận rất phổ thông trong các vũ trường... Trên sân khấu lưu diễn MINH TINH CA VŨ ĐOÀN của Antoine Đạm cũng đă có sự ra mắt của những bài ca cải cách... Lưu Hữu Phước cùng với Mai Văn Bộ cũng đă soạn cho Câu Lạc Bộ Học Sinh (nằm trong Hội SAMIPIC kể trên) một bài ca chính thức nhan đề Hành Khúc Của Thanh Niên Nam Kỳ (Marche De La Jeunesse Cochinchinoise), nhạc của Lưu Hữu Phước, lời ca của Mai Văn Bộ, bằng tiếng Pháp (*)... C̣n có thêm những học sinh, sinh viên từ Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long lên Saigon theo học tại trường Pétrus Kư như Nguyễn Mỹ Ca, Trần Văn Khê v.v... và đă hoạt động ráo riết cho một nền âm nhạc mới, dù có khi họ chỉ soạn ra những bài hát Việt với lời ca tiếng Pháp. Sau này, họ c̣n cho ra một Tuyên Ngôn Về Âm Nhạc để cổ xúy cho nền Tân Nhạc do Trần Văn Khê, Hành Khúc Của Thanh Niên Nam Kỳ , Nguyễn Tôn Hoàn đồng kư tên.

Tôi, Phạm Duy, vào lúc khởi sự có âm nhạc cải cách, đă tự học nhạc lư, tự học đàn mandolin, đàn guitar và đă khá nổi danh là ca sĩ hát hay ở tỉnh nhỏ Hưng Yên, đă đem những bài thơ của Huy Cận, Nguyễn Bính v.v... ra phổ nhạc, trước khi bỏ nhà đi theo một gánh hát rong, đi lưu diễn trong gần ba năm trời tại nhiều tỉnh trong khắp ba miền Trung, Nam, Bắc... vô t́nh trở thành một kẻ du ca chuyên nghiệp (không phải là amateur như hầu hết các nhạc sĩ trẻ thời bấy giờ) đi phát huy Tân Nhạc Việt Nam một cách đắc lực nhất.
_________________________
(*) Theo Mai Văn Bộ, trong cuốn Lưu Hữu Phước, Con Người Và Sự Nghiệp, nhà xuất bản TRẺ 1989.



( Trích từ bài viết về Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam của tác giă Phạm Duy ) 



__________________
Tôi Yêu Tiếng Nước Tôi Từ Khi Mới Ra Đời .


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: Nhạc Sử : Âm Nhạc Cải Cách


Lịch sử Tân Nhạc Việt Nam
Vietsciences-Trần Quang Hải 24/08/2004

Phần I
Nhạc Mới hay là Tân Nhạc hay là Nhạc Cải Cách là một loại nhạc xuất hiện vào khoảng năm 1928. Đó là một thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng (thang âm thất cung do-ré-mi-fa-sol-la-si-do, ḥa âm phối khí, nhạc khí Tây phương vv...).

Lịch sử tân nhạc Việt Nam có thể chia thành năm giai đoạn:

Giai đoạn tượng h́nh (1928-1937)
Giai đoạn thành lập (1938-1945)
Giai đoạn kháng Pháp (1946-1954)
Giai đoạn đất nước chia đôi (1954-1975)
Giai đoạn di tản (từ 1975 trở đi)
Giai đoạn tượng h́nh (1928-1937)
Nói cho đúng th́ sự phát xuất đầu tiên của âm nhạc cải cách khởi xướng từ loại nhạc đàn tài tử trong Nam với những nhạc phẩm mới của thầy kư Trần Quang Quờn khoảng trước thế chiến thứ nhứt (1914-1918)

Nghệ sĩ cải lương tiền phong Tư Chơi (tên thật là Huỳnh Thủ Trung) đă sáng tác một số bài hát ta theo điệu tây như "Tiếng nhạn trong sương", "Ḥa duyên", đồng thời viết bài Việt cho một số bài Tây thịnh hành thời đó như "Marinella" (trong vở tuồng Phũ Phàng). Một số bản nhạc Pháp được dịch ra lời Việt như "Pouet Pouet " (trong tuồng Tiếng Nói Trái Tim), "Tango mystérieux " (trong tuồng Đóa Hoa Rừng), "La Madelon " (trong tuồng Giọt Lệ Chung T́nh), vv..

Nghệ sĩ Bảy Nhiêu có sáng tác bài "Hoài T́nh" trở thành một bản rất được ưa chuộng . Năm 1930, đảng cộng sản Đông Dương được thành lập và bài ca của Đ́nh Như "Cùng Nhau Đi Hồng Binh" được sáng tác trong tù và đi liền với phong trào kháng Pháp.

Có một số bản nhạc được viết ra trước thế chiến thứ hai như « Bẽ Bàng » (1935), « Nghệ Sĩ Hành Khúc » (1936) của Lê Yên, « Bóng Ai Qua Thềm » (1937)của Văn Chung, « Xuân Năm Xưa »(1936) của Lê Thương , « Biệt Ly » (1939) của Doăn Mẫn, vv…

Vào khoảng năm 1937, phong trào "ái Tino" lên rất cao tại Việt Nam. Trên làn sóng điện, trong rạp hát, tại các vũ trường, nơi tư nhân đâu đâu cũng nghe những âm điệu du dương của nhạc sĩ Vincent Scotto qua giọng hát êm ả của Tino Rossi.

Giai đoạn thành lập (1938-1945)
Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác nh"ng bản tân nhạc đầu tiên. Đó là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần năm 1996 tại Việt Nam). Trong Nam th́ có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đăng Hinh. Tháng 3, 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chánh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết tŕnh về âm nhạc cải cách hầu tạo một phong trào mới.

Vào tháng 9, 1938, báo Ngày Nay đă góp công vào phong trào phổ biến nhạc mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đă đăng "Bông Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "B́nh Minh", "Đàn Xuân "của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc Yêu Đương" của Thẩm Oánh, "Bản Đàn Xuân" của Lê Thương, "Đám Mây Rừng " của Phạm Đăng Hinh, "Đường Trường" của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản "Con Thuyền Không Bến " của Đặng Thế Phong.

Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:

1. sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.

2. sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu.

Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoăn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu châu và phải rả sớm. Nhóm Đồng Vọng ở Hải Pḥng có các nhạc sĩ Hoàng Quư, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quư điều khiển ra đời chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc mới.

Lê Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng đạo có nh"ng tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Ngữ, Hoàng Quư đă sáng tác những bài nhạc đáng kể như "Nhớ Quê Hương" (Phạm Ngữ), và "Chùa Hương" (Hoàng Quư).

Tỉnh Nam Định chứng kiến sự chào đớ của hai bài "Đêm Thu" và "Con Thuyền Không Bến" của nhạc sĩ đoản mệnh Đặng Thế Phong.

Hai bài nhạc Nhựt "Hà Nhựt Quân Tái Lai " (Bao giờ anh trở lại ) và "Shina No Yoru " (Đêm Trung Hoa) trích trong phim "Đêm Trung Hoa" (Nuit de Chine) đă gợi hứng cho nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào "Người Việt hát nhạc Việt ".

1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Nh"ng bài "Việt Nam Bất Diệt" của Hoàng Gia Linh, "Trên Sông Bạch Đằng" của Hoàng Quư, "Tiếng Gọi Sinh Viên" của Lưu Hữu Phước đă làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.

Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đă đóng một vai tṛ đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đă được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn c̣n sống măi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhứt là những ngướ vào tuổi ngũ tuần trở đi). Những ai đă sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn c̣n nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như "Ải Chi Lăng", "Bạch Đằng Giang", "Hội Nghị Diên Hồng", hay những bài khích động thanh niên như "Tiếng Gọi Sinh Viên" (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thớ Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). "Lên Đàng" hay với thiếu nữ như "Thiếu Nữ Việt Nam", hay những bài gắn liền với lịch sử như "Kinh Cầu Nguyện", "Hồn Tử Sĩ" (bài mà trong bất cứ chương tŕnh đấu tranh của người Việt di tản vẫn c̣n dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ "Tục Lụy" của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch "Con Thỏ Ngọc". Nguyễn Đ́nh Thi sáng tác bài "Diệt Phát Xít" thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.

Lúc bấy giờ ở tại Sài G̣n, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách. Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) tŕnh diễn piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ quá cố Vơ Đức Thu tŕnh bày nhạc phẩm "Việt Nam Tân Điệu". Từ Bắc tới Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm.

Trong giai đoạn 1944-1945, nhiều bài bạn tôn giáo như "A Di Đà Phật" của Thẩm Oánh được hát nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quan sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài "Sám Hối" và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Băo Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đă sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).

Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với "Tiến Quân Ca" (trở thành Quốc Ca của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xă hội chủ nghĩa từ năm 1976 sau khi thống nhứt đất nước), "Chiến Sĩ Việt Nam ", như Đỗ Nhuận với "Nhớ Chiến Khu ", như Phạm Duy với "Chiến Sĩ Vô Danh ", "Xuất Quân ", như Lưu Hữu Phước với "Đoàn Quân Ma ", như Phan Huỳnh Điểu với "Giải Phóng Quân ", như Thẩm Oánh với "Việt Nam Phục Quốc ". Song song vơí những sáng tác chiến đấu, t́nh cảm vẫn c̣n rung động trong nguồn hứng qua các bài "Thiên Thai " (Văn Cao), "Đêm Đông " (Nguyễn Văn Thương), "Xuân và Tuổi Trẻ " (La Hối), "Mùa Đông Binh Sĩ " (Phan Huỳnh Điểu), "Dạ Khúc " (Nguyễn Mỹ Ca), "Đêm Tàn Bến Ngự " (Dương Thiệu Tước), " Cây Đàn Bỏ Quên " (Phạm Duy), "Mơ Hoa " (Hoàng Giác), "Cô Lái Đ̣" (Thẩm Oánh), "Suối Mơ " (Văn Cao), "Hẹn Một Ngày Về " (Lê Hữu Mục), "Đi Chơi Chùa Hương " (Trần Văn Khê/Nguyễn Nhược Pháp).

Các nhạc sĩ đă dùng nhạc để diễn tả những bài thơ lăng mạn của Đoàn Phú Tứ (« Màu Thời Gian » nhạc Nguyễn Xuân Khoát), của Lưu Trọng Lư ( « Tiếng Thu » nhạc Phạm Duy), của Nguyễn Bính (« Cô Lái Đ̣ » nhạc Nguyễn Đ́nh Phúc) . Các đề tài lăng mạn của Tự Lực Văn Đoàn tạo nguồn hứng cho một vài nhạc phẩm như « Bướm Hoa » của Nguyễn Văn Thương , hay « Cô Hái Hoa » của Hoàng Giác .

Nhạc nhà thờ với nhạc sĩ Hùng Lân (tù trần năm 1986 tại Việt Nam), nhạc quân đội với Đinh Ngọc Liên khởi xướng trong giai đoạn sơ khai này .

Trước năm 1945, nhạc dành cho trẻ em rất hiếm. Hoàng Quư có viết một số bài v́ ông là huynh trưởng của đoàn hướng đạo Hải Pḥng . Phạm Văn Xung đă đưa nhiều bản nhạc trẻ em Tây phương với lời Việt vào phong trào hướng đạo. Một số rất ít nhạc phẩm của Nguyễn Xuân Khoát như « Con Voi », « Thằng Bờm », hay của Lê Thương như « Thằng Cuội » được xem như là những ca khúc trẻ em đầu tiên của Việt Nam . Sau 1945, Phong Nhă là người đầu tiên thật sự viết ca khúc cho trẻ em như « Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi nhi đồng », « Kim Đồng », « Nhanh Bước Nhanh Nhi Đồng », vv…   ( Con Tiep )

TG: Tran Quang Hai

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

Giai đoạn kháng pháp (1946-1954)
Giai đoạn kháng Pháp (1946-1954) bắt đầu từ tháng 12, 1946 đă chứng kiến sự chào đời của một số nhạc khúc tranh đấu mănh liệt. Đa số các nhạc sĩ đă rời cuộc sống xa hoa của thủ đô và các thành phố để tự nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến toàn quốc. Từ đó, âm nhạc Việt Nam bước vào một giai đoạn mới. Tại vùng bị chiếm, âm nhạc vẫn tiếp tục theo chiều hướng nhạc tr" t́nh, lăng mạn, hay nhạc nói lên những h́nh ảnh dân tộc Việt, phong cảnh Việt. Có thể kể một số bài bản điển h́nh như "Người Hà Nội " (Nguyễn Đ́nh Thi), "Làng Tôi " (Văn Chung), "Quê Em " (Nguyễn Đức Toàn), "Rạng Đông " (Hùng Lân), "T́nh Ca" (Phạm Duy), "Bà Mẹ Quê" (Phạm Duy), "Vợ Chồng Quê " (Phạm Duy), "Em Bé Quê " (Phạm Duy), "Ngày Trở Về " (Phạm Duy), "Mơ Khúc Tương Phùng " (Văn Phụng), "Ai Về Sông Tương "(Thông Đạt), "Tiếng Thời Gian " (Lâm Tuyền), "Ḥn Vọng Phu 1,2,3 " (Lê Thương), "Ḥa B́nh 48 " (Lê Thương), "Liên Hiệp Quốc " (Lê Thương), "Chúc Tết " (Lê Thương), "Tiếng Thùy Dương " (Lê Thương), vv....

Với thể hành khúc, ca khúc chiến đấu, âm điệu hùng tráng lúc đầu dựa theo các điệu diễn binh của Pháp, rồi dần dần hấp thụ và chuyển biến thành những hành khúc mang màu sắc dân tộc. Qua những nhạc khúc đi sâu vào ḷng dân tộc thời bấy giờ như "Du kích Sông Thao", "Chiến Thắng Điện Biên " của Đỗ Nhuận, "Sông Lô" của Văn Cao, "Tiểu Đoàn 307 " của Nguyễn Hữu Trí, "Bộ Đội Về Làng" của Lê Yên, "Quê Tôi Giải Phóng " của Văn Chung. "Ḥ Kéo Pháo" của Hoàng Vân, nhạc đấu tranh đă thành công trong việc kết hợp ngôn ngữ âm nhạc Tây phương và âm điệu dân tộc dựa trên thang âm ngũ cung. Bác và đảng cũng là một đề tài mới mẻ đă sinh ra một bài như "Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch" của Văn Cao, "Biết Ơn Cụ Hồ" của Lưu Bách Thụ, và "Chào Mừng Đảng Lao Động Việt nam " của Lưu Hữu Phước, vv....

Trong giai đoạn này , tại Pháp trong những năm 1949 tới năm 1951, hăng dĩa ORIA đă thu mấy chục dĩa nhựa 78 ṿng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh (biệt hiệu của giáo sư Trần Văn Khê), Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lư (tức nhạc sĩ Nguyễn Văn Thông) những ca khúc của Lưu Hữu Phước (« Hội nghị Diên Hồng »), Phạm Duy (« Chiến sĩ vô danh »), Lê Thương (« Tiếng Thùy Dương », « Ḥa B́nh 48 »), Vơ Đức Thu (« Quyết Tiến »), Nguyễn Hữu Ba ( « Lửa Rừng Đêm »), Đan Trường (« Trách Người Đi ») vv...

Giai đoạn thứ nh́ của lịch sử tân nhạc khởi sự từ sau hiệp định Genève (1954) cho tới lúc mất Saigon (30 tháng 4, 1975).

4. Giai đoạn đất nước chia đôi (1954-74)
Hiệp định Genève được kư vào tháng 7,1954. Đất nước Việt Nam bị chia đôi. Vĩ tuyến 17 được tạm dùng làm ranh giới cắt đôi xứ Việt Nam. Miền Bắc với chế độ xă hội chủ nghĩa, và miền Nam với chế độ dân chủ cộng ḥa.

A. Nhạc mới tại miền Bắc
Với đường lối cộng sản, với sự ảnh hưởng âm nhạc của Trung Quốc và Nga sô ngày càng sâu đậm theo tỷ số ngày càng cao của các nhà soạn nhạc được gởi đi du học ở các nước cộng sản. Bốn chủ đề được khuyến khích để phát triển:

1. Hồ chí Minh.
Tên của Hồ Chí Minh được dùng làm nguồn hứng cho một số sáng tác như " Việt Bắc nhớ Bác Hồ" (Phạm Tuyên), "Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người " (Trần Kiết Tường), "Đôi Dép Bác " (Văn An), " Nhớ Ơn Hồ Chí Minh" (Tô Vũ), "Lời Ca Dâng Bác " (Trọng Loan), "Trồng Cây Lại Nhớ Đến Người" (Đỗ Nhuận), vv....

2. Phong cảnh và tâm hồn Việt Nam
cũng gợi cho một số nhạc sĩ viết những nhạc phẩm như "Quảng B́nh Quê Ta Ơi" (Hoàng Vân), "Vàm Cỏ Đông " (Trương Quang Lực), "Tây Nguyên Bất Khuất" (Văn Kư), "Bài Ca Hà Nội " (Vũ Thành), "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" (Hoàng Hiệp), "Một Khúc Tâm T́nh Của Người Hà Tĩnh " (Nguyễn Văn Tư), "Những Cô Gái Đồng Bằng Sông Cửu Long" (Huỳnh Thơ), « Cô Gái Sài G̣n Đi Tải Đạn » (Lư Nhất Vũ), « Tiếng Về Sài G̣n » (Huỳnh Minh Siêng), « Sài G̣n Quật Khởi » (Hồ Bắc), « Hướng Về Hà Nội » (Hồ Bắc), vv...

3. Dân tộc thiểu số
là một đề tài mơí cho những sáng tác như "Tiếng Đàn Tà Lư" (Huy Thục), "Cô Gái Cầm Đàn Lên Đỉnh Núi" (Văn Kư), "Bản Mèo Đổi Mới" (Trịnh Lai), "Em Là Hoa Pơ Lang" (ĐứcMinh), "Bóng Cây Kơ Nia" (Phan Huỳnh Điểu). 
(Con Tiep )

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
Lich Su Am Nhac ( T T )


3. Dân tộc thiểu số
là một đề tài mơí cho những sáng tác như "Tiếng Đàn Tà Lư" (Huy Thục), "Cô Gái Cầm Đàn Lên Đỉnh Núi" (Văn Kư), "Bản Mèo Đổi Mới" (Trịnh Lai), "Em Là Hoa Pơ Lang" (ĐứcMinh), "Bóng Cây Kơ Nia" (Phan Huỳnh Điểu).

4. Giai đoạn *Noi Chien (1965-1975)  (Toi tam dat ten lai -BH ) :
là một động cơ thúc đẩy những nhà sáng tác âm nhạc sản xuất những bản nhạc như "Anh Vẫn Hành Quân" (Huy Du), "Chào Anh Giải Phóng Quân" (Hoàng Vân), "Lời Anh Vọng Măi Ngàn Năm - Nguyễn Văn Trỗi " (Vũ Thành), "Bài Ca Năm Tấn" (Nguyễn Văn Tư), "Lá Thư Hậu Phương" (Phạm Tuyên), "Trai Anh Hùng, Gái Đảm Đang" (Đỗ Nhuận), "Bài Ca May Áo" (Xuân Hồng), "Hành Khúc Giải Phóng" (Lưu Nguyễn Long Hưng tức Lưu Hữu Phước), "Giải Phóng Miền Nam" (Huỳnh Minh Siêng , một biệt hiệu khác của Lưu Hữu Phước). Bài "Giải Phóng Miền Nam" được dùng làm quốc ca của Mặt trận giải phóng từ năm 1960 tới năm 1975.

Sau khi "giải phóng " miền Nam ngày 30 tháng 4,1975, một số bản nhạc được chào đời : "Tiếng Hát Thành Phố Mang Tên Người" (Cao Việt Bách), "Bài Ca Thống Nhứt" (Vơ Văn Di), "Đất Nước Trọn Niềm Vui" (Hoàng Hà), "Bài Ca Xây Dựng" (Hoàng Vân), vv..... Ngoài bốn chủ đề trên, các nhạc sĩ miền Bắc cũng có sáng tác cho những nhạc khí cổ truyền qua những nhạc phẩm như : "V́ Miền Nam" cho độc huyền và dàn nhạc giao hưởng của Huy Thục, "Vững Một Niềm Tin" cho đàn nguyệt của Xuân Bá, "Vũ Khúc Tây Nguyên" cho đàn độc huyền của Đỗ Nhuận, "Hội Mùa" cho sáo của Đinh Th́n, "T́nh Quê Hương" cho đàn nhị của Thao Giang, "Kể Chuyện Quê Hương" cho đàn tỳ bà của Mai Phương, "B́nh Minh Trên Reo Cao" cho đàn tranh của Phương Bảo. Đa số những sáng tác cho nhạc khí cổ truyền đều do chính tác giả tŕnh diễn như các nhạc sĩ Đức Tùy, Ngọc Phan , Đinh Th́nh với sáo trúc, Mai Phương với đàn tỳ bà, Hồ Khắc Chí với đàn bầu, Kim Oanh với đàn trưng, klôngput, Phương Bảo với đàn tranh, Thao Giang, Thế Dân. Riêng về đàn bầu có khá nhiều nhạc sĩ sáng tác đóng góp như Huy Thục, Hoàng Đạm, Hoàng Vân, Đức Nhuận, Huy Du, Đinh Long, Xuân Khải, Khắc Chí, Văn Thắng , Xuân Tứ, Hồng Thái , Quốc Lộc được các nhạc sĩ tŕnh diễn sau đây độc tấu : Mạnh Thắng, Đức Nhuận, Đoàn Anh Tuấn, Nguyễn Tiến, Khắc Chí, Nguyễn Chương, Thanh Tâm, Xuân Ba, Ngọc Hướng.

Sau khi hiệp định Genève ( Accord de Genève) kư xong, nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia Liên Xô và Đông Âu tới Hà nội tŕnh diễn với những màn hợp xướng làm cho các nhạc sĩ Việt Nam thời đó quan tâm tới việc soạn ca khúc nhiều bè . Những sáng tác đầu tiên vào năm 1955 như « Ḥ Đẵn Gỗ » (Đỗ Nhuận), « Sóng Cửa Tùng » (Doăn Nho), « Chiến Sĩ Biên Pḥng » (Huy Thục), cũng như trong năm 1956 và 1957 với « Ta Đă Lớn », « Ḥ Kiến Thiết » (Nguyễn Xuân Khoát), « Tiếng Chim » (Lưu Cầu), « Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy » (Tô Hải , 1958), vv…

Từ 1960 tới 1975, song song với lớp nhạc sĩ đi đầu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Doăn Nho, Tô Hải, Lưu Cầu, Vân Đông, Hoàng Hà, Hồ Bắc, Huy Thục, La Thăng, một số nhạc sĩ trẻ (Trọng Bằng, Cao Việt Bách, Đỗ Dũng, Hoàng Bội, Thế Bảo) chú ư tới soạn vừa cho hát và nhạc khí xuất hiện và đẩy mạnh phong trào sáng tác hợp xướng ở miền Bắc .

Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thể nghiệm vở thanh xướng kịch (một loại trường ca) đầu tiên « Vượt Sông Cái » vào năm 1955, và Đàm Linh viết vở « Nguyễn Văn Trỗi » theo lời thơ của Chu Điền vào năm 1965.

Ảnh hưởng nhạc cổ điển Tây phương được thể hiện trong những bài hát dân ca, những giao hưởng khúc, những "opera" (kịch hát) với phương pháp phối âm phối khí theo nhạc ngữ Tây phương do các nhạc sĩ được gởi đi tu nghiệp ở các viện âm nhạc các quốc gia cộng sản. Nguyễn Đ́nh Tân, Đàm Linh, Nguyễn Văn Nam, Trọng Bằng, Đỗ Nhuận, Văn Kư đều du học ở Nga Sô, Hoàng Việt ở Bảo Gia Lợi, Nguyễn Văn Thương ở Đông Đức, Hoàng Đàm, Hoàng Vân ở Trung Quốc, Nguyễn Tài Tuệ ở Bắc Hàn. Những kịch hát (opera) Việt hóa được thành h́nh như "A Sao" và "Người Tạc Tượng" của Đỗ Nhuận, "Bên Bờ Krong Pa" của Nhật Lai, "Bông Sen" của Lưu Hữu Phước và Nguyên Vũ, "Quê Hương" của Hoàng Việt.

Một xu hướng mới được phát hiện sau khi đất nước bị chia đôi, đó là thể loại sáng tác bài ca không lời theo cấu trúc cổ điển Tây phương dùng cho dàn nhạc hơn là hát . Các nhạc sĩ Lưu Cầu (« Quê Hương »), Nguyễn Văn Thương, Chu Minh (« Bài Ca Không Lời »), Tô Vũ (« Trăng Cung Hồ »), Hồng Đăng , Văn Kư, Lê Lôi, Huy Du (« Miền Nam Quê Hương Ta Ơi »), Ca Lê Thuần (12 préludes không tiêu đề), Minh Khang (10 préludes), Hoàng Dương (« Giai Điệu Quê Hương »), Hoàng Cương , Sơn Ngọc Hoàng , vv… Rồi các loại khác như vũ khúc chú trọng đến các vũ điệu các sắc tộc miền núi như các tác phẩm « Vũ Khúc Tây Nguyên » (Hoàng Đạm), « Tây Nguyên Vui Chiến Thắng » (Nguyễn Văn Thương), « Rừng Xuân Tây Nguyên » (Vĩnh Cát), « Vũ Khúc Hơ Rê » (Hoàng Dương), « Vũ Khúc Tây Bắc » (Trọng Bằng), vv…

Các loại khác như Scherzo ( « Lư Ngựa Ô » của Nguyễn Tuấn), Ru Con (« Hát Ru cho piano » của Nguyễn Đ́nh Tấn), Sérénade ( « Chiều Quê Hương » cho piano và violon của Nguyễn Thị Nhung), Fantaisie (« Fantaisie số 1 » của Quang Hải), Rhapsodie (« Bài Ca Chim Ưng » của Đàm Linh), Sonate (« Người Về Đem Tới Ngày Vui » của Trọng Bằng ), Symphonie (Giao hưởng khúc) (« Quê Hương » của Hoàng Việt) được sự hưởng ứng của nhiều nhạc sĩ .

Một loại h́nh khác là Ca kịch nhỏ (operette như « Tục Lụy » của Lưu Hữu Phước), kịch hát nói (« Căn Nhà Màu Hồng Ngọc » của Hoàng Vân) và điện ảnh . Tác giả đầu tiên của nhạc phim ảnh là Nguyễn Đ́nh Phúc (phim « Chung Một Ḍng Sông », « Lửa Trung Tuyến ») đă tạo nên một trường phái viết nhạc phim . Các nhạc sĩ khác như Trọng Bằng (« Cù Chính Lan », « Biển Lửa »), Hồng Đăng (« Hà Nội Mùa Chim Làm Tổ ») , Hoàng Vân ( « Con Chim Vành Khuyên »), Đàm Linh ( « Đường Về Quê Mẹ »), Trọng Đài ( « Canh Bạc »), Đặng Hữu Phúc (« Tướng Về Hưu ») tiếp nối và phát triển mạnh mẽ nhạc phim ở Việt Nam .
(Con Tiep )

-- Edited by BaHa at 09:34, 2006-08-05

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: Nhạc Sử : Âm Nhạc Cải Cách


A. Nhạc mới tại miền Nam
Song song với sự phát triển nhạc tại miền Bắc, luồng sóng người Bắc di cư vào miền Nam sau hiệp định Genève đă mang theo rất nhiều nhạc sĩ , và văn nghệ sĩ. Trong một chiều hướng tự do, các nhạc sĩ đă cùng nhau thi đua sáng tác qua những khuynh hướng và chủ đề mà tôi tạm chia thành bốn giai đoạn:

Nhạc t́nh tự dân tộc (1954-63)
Nhạc t́nh cảm lăng mạn (1963-1975)
Nhạc phản chiến xuống đường (1966-1975)
Du ca và nhạc trẻ (1968-1975)
1. Nhạc t́nh tự dân tộc (1954-1963)
Trong giai đoạn đầu này, miền Nam trở thành đệ nhất cộng ḥa dươí thời cố tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Những bài hát bộc lộ, thể hiện h́nh ảnh dân tộc, đất nước, cũng như đớ lính chiến được dùng làm đề tài để sáng tác. "Con đường cái quan" (Phạm Duy), "Mẹ Việt Nam", và "Tâm Ca" của Phạm Duy là những thiên trường ca nói lên cái đẹp của quê hương. Nhiều nhạc sĩ khác đă đóng góp rất nhiều như Lam Phương với "Khúc Ca Ngày Mùa", "Chiều Hành Quân", như Lê Trọng Nguyễn với "Nắng Chiều", như Lê Trạch Lựu với "Em Tôi", như Trần Văn Trạch với "Chiến Xa Việt Nam", "Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia", "Chiếc Xe Lửa Mùng Năm", như Nguyễn Văn Đông với "Chiều Mưa Biên Giới", "Mấy Dặm Sơn Khê", như Huỳnh Anh với "Mưa Rừng", như Hoàng Thi Thơ với "Gạo Trắng Trăng Thanh", "T́m Anh", như Trịnh Hưng với « Lối Về Xóm Nhỏ », « Tôi Yêu ».

2. Nhạc t́nh cảm lăng mạn (1963-1975)
Đệ nhị cộng ḥa bắt đầu tháng 11,1963 sau khi T .Th Ngô Đ́nh Diệm bị giết. T́nh và Lính là hai chủ đề quan trọng nhứt. Đời lính được nói tới nhiều qua một số nhạc phẩm: "Lính Nghĩ Ǵ ? (Hoài Linh), "T́nh Anh Lính Chiến " (Lam Phương), "Lính Trận Mưa Xa" (Bằng Giang và Anh Châu), "Anh Tiền Tuyến, Em Hậu Phương" (Minh Kỳ), "Phiên Gác Đêm Xuân" (Nguyễn Văn Đông), "Trên Vùng Bốn Chiến Thuật" (Trúc Phương), "Người Ở Lại Charlie" (Trần Thiện Thanh), "Người Yêu Của Lính" (Anh Chương ), "Em Yêu Người Lính Chiến" (Thu Hồ), "Ngày Phép Của Lính" (Thanh Sơn), "V́ Yêu Anh Là Lính" (Y Vân), "T́nh Lính" (Y Vân), "Lính Mà Anh" (Anh Thy), "Người Lính Chung T́nh" (Khánh Băng), "Hai Người Lính Tâm Sự" (Thanh Sơn), "13 Tuổi Lính" (Lê Dinh-Minh Kỳ), "Ngày Tṛn Tuổi Lính" (Lê Dinh-Dạ Cầm). Cho tới năm 1969, một số nhạc phẩm sau đây đă được rất đông người Việt miền Nam ưa thích và vẫn c̣n gợi lại trong ḷng những người ĺa xa đất nước ngày hôm nay. Như những t́nh khúc và các bài không tên nhứt là "Bài Không Tên Thứ Nhứt", "Bài Không Tên Số 2" của Vũ Thành An, "Mộng Dưới Hoa" (Phạm Đ́nh Chương-Đinh Hùng), "Nửa Hồn Thương Đau" (Phạm Đ́nh Chương-Cung Tiến-Thanh Tâm Tuyền), "Sang Ngang " (Đỗ Lễ), "Giọt Mưa Trên Lá "(Phạm Duy), "Kỷ Vật Cho Em" (Phạm Duy) , "Ngh́n Trùng Xa Cách" (Phạm Duy), "Nửa Đêm Ngoài Phố" (Trúc Phương), "Lệ Đá" (Hà Huyền Chi- Trần Trịnh), "Thôi " (Y Vân), "Căn Nhà Ngoại Ô" (Anh Bằng - T.H.), "Thương Quá Việt Nam" (Phạm Thế Mỹ), "Nỗi Ḷng " (Nguyễn Văn Khánh), "Kiếp Nghèo" (Lam Phương), "Khi Đă Yêu" (Phượng Linh), "T́nh Yêu Đă Mất " (Phạm Mạnh Cương), "100 phần 100" (Ngọc Sơn -Tuấn Hải), vv.... Khi bước sang 1970 cho tới khi Saigon bị thất thủ vào ngày 30 tháng 4, 1975, nhạc sĩ trẻ đă gây một tiếng vang lớn trong làng tân nhạc Việt Nam. Trần Thiện Thanh (cũng là ca sĩ Nhật Trường, sang định cư tại Hoa kỳ , 1993) là nhạc sĩ tiêu biểu cho giai đoạn tân nhạc thời này (1970-75). Những nhạc khúc của anh như "Mùa Đông Của Anh", "Người Yêu Tôi Khóc", "Anh Không Chết Đâu Em", "Người Ở Lại Charlie", tả lại nỗi đau khổ của người lính , người t́nh ở tiền tuyến cũng như nỗi lo lắng của người sống hay chết sau chiến tranh. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận những ca khúc khác cũng đánh dấu vai tṛ của nó trong giai đoạn này. Phạm Duy với "Mùa Thu Chết", "Em Hiền Như Ma Soeur" , Nguyễn Ánh 9 với "Không", « Buồn Ơi, Chào Mi », Châu Kỳ với "Tôi Viết Nhạc Buồn", Vũ Chương-Dạ Cầm với "Lần Đầu Cũng Là Lần Cuối", Lê Dinh với "Nếu Mai Này", Lê Mộng Bảo với "Ve Sầu", Vũ Thành An với "Đừng Yêu Tôi", Khánh Băng vơí "Nếu Một Ngày", Mai Bích Dung với "Cho Người T́nh Nhớ" , Hoàng Thi Thơ với "Một Lần Cuối", Tùng Giang và Nam Lộc với "Anh Đă Quên Mùa Thu", Ngân Giang với "Vỗ Ta Mừng Rạng Đông", vv.... Cũng trong giai đoạn này (1963-1975) Phạm Duy là nhạc sĩ sáng tác nhiều nhạc phẩm nhất ở Việt Nam, và đa số các bản nhạc đều được ưa thích. Phạm Duy đă sáng tác trên 700 bài và nhiều tập nhạc về một chủ đề như "Bé Ca", "Tục Ca", "Tâm Phẫn Ca", "Đạo Ca", "B́nh Ca". Hoàng Thi Thơ là một trong một số ít nhạc sĩ đă thành công ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhạc mang nhiều dân tộc tính như "Gạo Trắng Trăng Thanh", "Rước T́nh Về Với Quê Hương", nhạc quê hương như "Trớ Quê Hương Ta Xanh", "Mặt Trời Lại Sáng Quê Hương", nhạc hùng mạnh như "Những Người Không Biết Quay Lùi", "Quân Thù Nào", nhạc t́nh cảm như "Đường Xưa Lối Cũ ", "Tà Áo Cưới", "Chuyện T́nh Người Trinh Nữ Tên Thi". Hoàng Thi Thơ c̣n soạn một số nhạc cảnh như "Xe Phở Việt Nam", "Lăo Hành Khất Mù Độc Đáo", hay những trường ca như "Trường Ca Một Ngày Trọng Đại", "Trường Ca Màu Hồng Sử Xanh", cũng như viết nhạc cho một số vũ điệu dân tộc ít người như múa x̣e , múa sập, múa kơ ho, và những kịch hát như "Ả Đào Say", "Cô Gái Điên". Lam Phương là nhạc sĩ miền Nam đă sáng tác mấy trăm nhạc phẩm và một số đă đi sâu vào ḷng dân miền Nam v́ giai điệu phản ảnh dân nhạc. Có thể kể như "Khúc Ca Ngày Mùa", "Chuyến Đ̣ Vĩ Tuyến", "Chiều Hành Quân", "Kiếp Nghèo", "Đoàn Người Lữ Thứ" "T́nh Anh Lính Chiến", "Nhạc Rừng Khuya", "Trăng Thanh B́nh", "Ngày Tạm Biệt", vv... Trần Văn Trạch, một thiên tài của Việt Nam, giữ một ngôi vị độc tôn về nhạc hài hước trong lịch sử tân nhạc Việt Nam và đă đóng góp một số nhạc phẩm như "Tai Nạn TêLêPhôn", "Cái Đồng Hồ", "Chiếc Xe Lửa Mùng Năm". Bài "Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia" của Trần Văn Trạch đă được sáng tác vào năm 1955 và đă nổi tiếng khắp miền Nam Việt Nam trong ṿng 20 năm (tới năm 1975), một bài hát mà hầu như mọi người Việt Nam miền Nam đều đă được nghe v́ là bài hát được tŕnh bày mỗi tuần trước khi xổ số tại Saigon. Nhạc châm biếm xă hội đă được thể hiện qua ban tam ca AVT với những bản nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của Chèo như "Trấn Thủ Lưu Đồn", "Bán Nước", "Ba Bà Đi Bán Lợn Xề", vv....
(Con Tiep )

-- Edited by BaHa at 09:37, 2006-08-05

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

3. Nhạc phản chiến - xuống đường (1966-1975)
Hiện tượng Trịnh Công Sơn tiêu biểu cho phong trào nhạc phản chiến tại miền Nam. Bắt đầu vào khoảng năm 1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn với một nhạc ngữ mới lạ dựa vào dân ca Mỹ, Ái nhĩ lan, hay loại nhạc thể (modal music) của thời Trung Cổ bên Âu châu, đă chinh phục thế hệ trẻ qua giọng hát của Khánh Ly. Trịnh Công Sơn đă đánh trúng tâm lư của giới trẻ, một giới trẻ ngao ngán cuộc chiến, chỉ khao khát ḥa b́nh. Năm 1968, Trịnh Công Sơn đă tung ra tập nhạc "Kinh Việt Nam" sau Tết Mậu Thân và đă kêu gào mọi người nên dừng tay giết nhau.

"Dân ta tàn phế 20 năm. Nước mắt và máu đă làm thành nh"ng con suối lớn chảy ṃn tiềm lực sáng tạo. Đă mướ năm nay, anh em ta săn đuổi nhau bằng hận thù giả tạo. Xin hăy dừng tay để mọi căn nhà Việt Nam co' thể mở rộng chờ đón một sớm mai ḥa b́nh ".

"Cánh Đồng Ḥa B́nh", "Đồng Dao Ḥa B́nh", "Nối Ṿng Tay Lớn" của Trịnh Công Sơn đă được vang dậy trong các buổi hát phản chiến. Tập nhạc "Ta Phải Thấy Mặt Trời " (1969) Trịnh Công Sơn gieo tiếp những hạt giống chống chiến tranh tại miền Nam một cách mănh liệt. Sự thành công của "Những T́nh Khúc" (1967) của Trịnh Công Sơn với các bản "Nh́n Những Mũa Thu Đi", "Mưa Hồng", "Diễm Xưa", "Nắng Thủy Tinh", "C̣n Tuổi Nào Cho Em", "Tôi Ru Em Ngủ", "T́nh Sầu", "T́nh Xa", "Ru Em", "Ru Ta Ngậm Ngùi", "Biển Nhớ", "Hạ Trắng ", "Cát Bụi", "Như Cánh Vạc Bay" đă tạo một chỗ đứng vững vàng trong làng tân nhạc Việt Nam. Từ đó mới nẩy sinh những bài hát kêu gọi ḥa b́nh trong "Hăy Nói Giùm Tôi" trong "Ca Khúc Da Vàng". Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ nổi nhất trong ṿng 10 năm chót của đệ nhị Cộng Ḥa Việt Nam (1966-1975) với hàng trăm bản nhạc nói lên t́nh yêu, đau khổ bởi chiến tranh, kêu gọi ḥa b́nh. Những chủ đề đó đă được thể hiện qua các tập "Ca Khúc Thần Thoại Quê Hương" , "Ca Khúc Da Vàng".

Song song với nhạc phẩm phản chiến của Trịnh Công Sơn, vào lúc sau Tết Mậu Thân 1968, mầm móng chong đối chính quyền mien nam ở Saigon bắt đầu nẩy nở ở tại các trường đại học văn khoa Saigon với Miên Đức Thắng (tên thật là Nguyễn Văn Thắng), tác giả của những nhạc phẩm "Hát Từ Đồng Hoang", "Lớn Măi Không Ngừng". Phong trào học sinh và sinh viên xuống đường dưới sự lèo lái của Huỳnh Tấn Mẫm, chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Saigon lúc đó đă tạo thành một luồng gió mới đối với nền tân nhạc Việt. "Hát Cho Đồng Bào Ta Nghe" ra đời giữa ngọn lửa đấu tranh của các thành thị miền Nam. "Hát Cùng Đồng Bào Ta" , tập nhạc xuống đường thứ hai xuất bản vào năm 1971 đă đưa tiếng hát từ những công trường, bến tàu, những phường xóm lao động đến các học đường. Những bài hát xuống đường được giới sinh viên học sinh thien ta hát nhiều nhất lúc đó là "Sức Mạnh Nhân Dân (Trương Quốc Khánh), "T́nh Nghĩa Bắc Nam" (Nguyễn Văn Sanh), "Đường Ta Đi Niềm Tin Lớn Mạnh" (Nguyễn Văn Sanh), "Phương Đông Đă Dậy Nắng Hồng" (Nguyễn La Nghi), "Qui Nhơn Ngời Ngời Biển Lửa" (thơ Trần Nhật Nam, nhạc Đoàn Đ́nh Quang), "Hát Trên Đường Đường Tranh Đấu" (Đoàn Công Nhân), "Người Cha Bến Tàu" (ư thơ Vơ Thiệu Quang, nhạc Trần Long Ẩn), "Không Ai Ngăn Nỗi Lời Ca" (La Hữu Vang), "Dậy Mà Đi" (Nguyễn Xuân Tấn). Tôn Thất Lập đă đóng góp nhiêù bản nhạc đi liền với phong trào sinh viên xuống đường như "Những Ngày Đại Hội Đấu Tranh", viết trong đại hội kỳ 2 tại đại học Vạn Hạnh, "Lúa Reo Trên Khắp Đồng Bằng", "Từ Sông Hương đến Sông Hát", "Chúng Ta Đă Đứng Dậy", vv..... Phạm Thế Mỹ, một nhạc sĩ của đại học Vạn Hạnh đă viết "Hoa Vẫn Nở Trên Đường Quê Hương ", "Những Người Không Chết ", "Thương Quá Việt Nam", "Bông Hồng Cài Áo" (qua y' thơ của Thích Nhật Hạnh).

4. Du ca và phong trào nhạc trẻ (1968-1975)


Phong trào du ca Việt Nam được thành lập năm 1966 tại Saigon cùng một lúc với phong trào làm công tác xă hội của thanh niên , sinh viên và học sinh; hai sáng lập viên của phong trào là các anh Nguyễn Quyết Thắng và Đinh Gia Lập. Phong trào được bộ Quốc Gia giáo dục và thanh niên Việt Nam Cộng Ḥa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động trên toàn quốc kể từ ngày 24 tháng giêng năm 1969.

Du ca là một đoàn thể hoạt động về văn nghệ phục vụ cộng đồng. Văn nghệ cộng đồng là h́nh thức văn nghệ trong đó cả người nghe lẫn người hát đều cộng tác với nhau, mục đích tác động tinh thần và cảm hóa ngướ nghe hơn là ru ngủ, để tất cả cùng ư thức và phục vụ cho cộng đồng, xứ sở . Người hát du ca trao đổi những khả năng chuyên môn qua sinh hoạt tập thể. Du ca viên gây tinh thần cộng đồng trong phạm vi khả năng của ḿnh. Người du ca noí với mọi người bằng những lời tai nghe mắt thấy qua âm thanh tiếng nhạc, hoạt cảnh , hay vũ khúc, vv.. Những lọai nhạc du ca gồm có: thanh niên ca, thiếu niên ca, sinh hoạt ca, dân ca, sử ca, nhận thức ca, và những bài ca t́nh người. Phong trào du ca do anh Hoàng Ngọc Tuệ làm chủ tịch đến năm 1967 th́ anh Đỗ Ngọc Yến lên thay thế. Các huynh trưởng hướng dẫn cũng như cố vấn như Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Lê Đ́nh Điểu, Ngô Mạnh Thu, Hà Tường Cát, Trần Văn Ngô, Trần Đại Lộc, Nguyễn Thanh, Nguyễn Khả Lộc, Phan Huy Đạt, Tống Hoằng và Phương Oanh. Phong trào cũng quy tụ khá nhiều nhạc sĩ tên tuổi cũng như huấn luyện viên và các cây viết trẻ gồm có: Nguyễn Đức Quang, Ngô Mạnh Thu, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Nguyễn Thanh, Anh Việt Thu, Giang Châu, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, và Nguyễn Quyết Thắng. Những tuyển tập nhạc du ca đă phát hành như: tuyển tập du ca 1, du ca 2, du ca 3, "Những Bài Ca Khai Phá", "Ta Đi Trên Ḍng Lịch Sử" , "Những Điều Trông Thấy", "Sinh Hoạt Ca", "Những Khuôn Mặt Du Ca", "Hát Cho Những Người Sống Sót".

Phong trào du ca Việt Nam trước 1975 có tác dụng mạnh đối với các giới trẻ qua các toán ca diễn đó đây, trong học đường, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn, hướng đạo, hay thanh sinh công (thanh niên, sinh viên, công nhân). Những ca khúc sinh hoạt của du ca là thức ăn nuôi dưỡng các đoàn thể để sinh hoạt. Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang đ̣i hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ, và cũng bởi niềm tỉnh thức đó, đâu đâu ta cũng nghe những bài hát quen thuộc. Thí dụ như bài "Việt Nam , Việt Nam " (Phạm Duy), "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ " (Nguyễn Đức Quang), "Hát Từ Tim, Hát Bằng Hơi Thở" (Nguyễn Quyết Thắng), "Anh Sẽ Về" (Nguyễn Hữu Nghĩa, thơ Kinh Kha), "Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương" (Nguyễn Đức Quang), vv....

Phạm Duy cũng có đóng góp trong phong trào du ca với một số bài bản như "Sức Mấy Mà Buồn", "Thôi Bỏ Đi Tám". Tất cả những ca khúc trong phong trào du ca đều có mục đích kêu gọi thanh niên hăy tự hào, tin tưởng và hy vọng nơi tương lai. Dù khó khăn, dù gian nan, dù sao đi nữa, người dân Việt Nam nên chấp nhận Việt Nam là quê hương ngàn đời. Niềm hy vọng nhỏ nhoi chỉ lóe lên và chưa được bừng sáng th́ 30 tháng 4, 1975 đă đưa hàng trăm ngh́n người ra đi trên đường di tản.

Nhạc trẻ là một hiện tượng âm nhạc xuất hiện tiên khởi vào đầu thập niên 60. Nhạc kích động Âu Mỹ bắt đầu xâm nhập thị trường miền Nam vào cuối năm 1959. Giới trẻ, con của các thương gia và giới trưởng giả theo học chương tŕnh Pháp thường nghe các loại nhạc kích động của Mỹ và Pháp. Phải đợi tới khoảng 1963-65, phong trào nghe nhạc kích động tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc nhu Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv.... là thần tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi.

Những ban nhạc trẻ kích động mang những trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane - cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đă qua đời năm 1998). Một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương (hiện ở Hoa Kỳ), Pauline Ngọc (không c̣n hát nữa và hiện sống bên Đức), Prosper Thắng (sống ở Pháp và từ trần năm 1998), Julie Quang (hiện sống ở Mỹ), Carol Kim ( sống ở Mỹ), vv.. Họ nổi danh với các bản nhạc ngoại quốc hát bằng lời Pháp và Anh. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ 1968 trở đi càng khuyến khích số người hát nhạc Mỹ nhiều hơn nữa. Trước sự bành trướng mạnh mẽ của nhạc ngoại quốc nổi tiếng, Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải, vv... chuyển sang đặt lời Việt cho nhạc ngoại quốc.

Phải đợi tới năm 1971 mơí thấy xuất hiện đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ (hiện ở Montreal, Canada), Tùng Giang (ở California, Hoa Kỳ), và Nam Lộc ( làm việc cho một cơ quan thiện nguyện USCC ở Los Angeles, Cali) đảm trách. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Saigon đă đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ qua những năm kế tiếp (1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, và 1974 , năm chót trước khi mất Saigon tại vườn sở thú với trên 20.000 khán giả).

Những bản nhạc ngoại quốc như "The House of the Rising Sun", "Reviens la Nuit", "Tous les Garçons et les Filles", "Capri, c'est fini", "Bang Bang" , "Besame Mucho", "Only You", "My Prayer", "Be Bop Be Lu La", "Love Story", "Yesterday", "Michelle", etc... là những bài vẫn c̣n được "ăn khách" trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hiện nay. Loại nhạc trẻ không đóng góp ǵ vào gia tài của nền tân nhạc Việt Nam hay chỉ là loại nhạc bắt chước theo người Tây phương, không có ǵ là sáng tạo cả. Đó là loại nhạc cuồng loạn, ru hồn thế hệ trẻ trong khung cảnh chiến tranh để cho họ tạm quên cảnh tương tàn của đất nước qua những bước nhảy tango, twist, be-bop, valse, pasodoble, rumba, cha cha cha, vv.. Một giai đoạn bị Mỹ hóa giữa thớ kỳ náo loạn.

Giai đoạn thứ ba của lịch sử tân nhạc Việt Nam kể từ khi hàng triệu người Việt bỏ xứ ra đi trên đường tạm dung sau ngày 30 tháng 4,1975 cho tới đầu thiên niên kỷ thứ ba
Tac Gia : TRAN QUANG HAI

-- Edited by BaHa at 09:31, 2006-08-05

__________________
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard