Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Hát Ả Đào (Ca Trù)-Ca Nhạc Pḥng


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
Hát Ả Đào (Ca Trù)-Ca Nhạc Pḥng







Ca Nhạc Pḥng



Giới nho sĩ Việt Nam khi xưa, tuy rất gần gũi với nông dân nhưng ở mỗi vùng đều có riêng một loại nhạc cho giới ḿnh, bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc. V́ loại ca nhạc này không c̣n là nhạc ở ngoài đồng ruộng hay giữa sân làng mà thường sinh hoạt ở trong pḥng (hay trong nhà hát) cho nên ta nên gọi nó là ca nhạc pḥng (music for entertainment, chamber music). Ở Bắc Việt có Hát Ả Đào, ở Trung Việt có Ca Huế và ở Nam Việt có Nhạc Tài Tử. Các loại ca nhạc pḥng này đều giống như Hát Quan Họ, có tŕnh độ nghệ thuật rất cao, cao hơn các loại dân ca, dân nhạc b́nh thường. Hơn nữa, v́ đă trở thành nghề hát với những ca sĩ, nhạc công chuyên nghiệp cho nên càng ngày Hát Ả Đào, Ca HuếNhạc Tài Tử càng phát triển. Cho tới khi nước Việt lâm vào cảnh bị Pháp xâm chiếm và cai trị th́ cả ba bắt đầu suy vi. Rồi tới khi người Việt được tiếp súc với văn hóa Âu Tây và giới trẻ đ̣i hỏi những món ăn âm nhạc mới th́ các h́nh thức ca nhạc pḥng này bị gần như bỏ rơi, trước khi sẽ được phục hồi bằng cách này hay cách khác.





Hát Ả Đào (Ca Trù)
Khởi sự là loại hát thờ, hát khao, hát đám ra đời từ thế kỷ XV và dưới quyền chỉ huy của các ông trùm trong nghề hát, Hát Ả Đào được thuê diễn trong những cuộc lễ thần (hát cửa đ́nh), hay tiệc nhà quan (hát cửa quyền). Vào lúc thịnh hành nhất, Hát Ả Đào gồm đủ mọi h́nh thức ca nhạc và ca vũ :
* Ca Nhạc có tính chất lễ giáo với những bài như Giáo Trống, Giáo Hương, Dâng Hương, Thiết Nhạc...
* Ca Vũ dùng trong buổi lễ và giúp vui th́ có Múa Bỏ Bộ, Múa Bài Bông, Múa Tứ Linh... Cùng có luôn cả những tṛ xiếc như đội mâm mà múa hay đi trên dây.

Rồi về sau, khi bị các h́nh thức sân khấu điêu luyện hơn là Tuồng, Chèo thay thế th́ vào cuối thế kỷ XIX, Hát Ả Đào thoát ra khỏi tṛ vui trong các đám lễ hay khao vọng, trở thành thú chơi tao nhă của nho sĩ. Các thi nhân thường gặp nhau ở nhà hát ả đào để nhờ đào nương ngâm lên (hát lên) những bài thơ mà thi nhân vừa soạn ra để tặng nhau. Đào nương miệng hát, tay đánh phách với tiếng đệm của chiếc đàn đáy. Quan viên nghe hát và khen hay chê qua những tiếng trống đế... Tất cả mọi việc sáng tác, biểu diễn và thưởng ngoạn như vậy cho ta thấy Hát Ả Đào là một nghệ thuật rất công phu.



Hát Ả Đào, tài liệu của Phạm Duy (chụp năm 1952)

Dường như tất cả thi nhân thời Nguyễn đều dùng Hát Ả Đào để nói lên tâm trạng của ḿnh qua một số điệu hát như Hát Nói, Gửi Thư, Ngâm Vọng, Thét Nhạc (do cái tên của điệu cổ xưa Thiết Nhạc mà ra), Bắc Phản v.v... Hát Ả Đào hiện nay đang được phục hồi và được gọi là Ca Trù.





Ca Huế
Nếu người b́nh dân ở miền Trung có khá nhiều các điệu dân ca như Ḥ Mái Nh́, Ḥ Mái Đẩy, Ḥ Thai, Ḥ Giă Gạo... để hát th́, ngoài loại Nhạc Triều có tính chất nhạc lễ nghi của vua chúa, giới quyền quư ở chốn kinh đô nhà Nguyễn có Ca Huế là thú chơi tao nhă của các hoàng thân và quan chức trong triều.



từ trái qua phải :
Ưng Dung, Tôn Thất Văn, Ưng Biều, Ngô Pḥ, Trần Quang Soạn, Hoàng Yến

Mang tính chất ca nhạc pḥng (chamber music), dưới thời Tự Đức (1847-1883) Ca Huế có ít nhất là 25 bản đờn trong số đó có 10 bản có lời ca (9 bằng chữ Hán, 1 bằng chữ Nôm). Đó là những bản : Lưu Thủy, Hồ Quảng, Kim Tiên (Tiên = không có dấu huyền), Xuân Phong, Xuân T́nh, Điểu Ngữ, Nam Xuân, Tư Mă Tương Như, Tiên Nữ Tống Lưu Nguyễn, Bá Nha Khấp Tử Kỳ, Tự Trào, Tự Thán, Trường Thán... Cùng như Hát Ả Đào ở miền Bắc, Ca Huế có tŕnh độ nghệ thuật rất cao v́ đă có nhiều bàn tay nghệ sĩ góp công xây dựng mà trong thế kỷ trước ta biết đích danh là ai, chẳng hạn Vua Tự Đức, Tuy Lư Vương, Ông Cả Soạn, Nguyễn Quang Tồn v.v...



Hai ông Bửu Lộc và Vĩnh Trân, thuộc hoàng phái
danh cầm về mọi thứ đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn nguyệt...


Ca Huế vào đầu thế kỷ 20 c̣n giữ lại một số bài cổ như Lưu Thuỷ, Kim Tiền (Tiền = với dấu huyền), Nam Xuân... và có thêm một số điệu khác như Nam Ai, Nam B́nh, B́nh Bán, Cổ Bản, Tứ Đại Cảnh v.v...

Danh cầm thường là người trong hoàng tộc như Vĩnh Trân (con vua Thành Thái), Vĩnh Phan và Bửu Lộc... Những bài ca Huế thường do các bực văn nhân nổi tiếng soạn như Ông Hoàng Nam Sách, Thúc Giạ Thị Ưng B́nh... Cụ Phan Bội Châu cũng là tác giả của nhiều bài ca Huế có giá trị...



Thúc Giạ Thị Ưng B́nh, người soạn nhiềễu lời ca cho CA HUẾ
Cô Nhơn, ngôi sao chói lọi của Ca Huế hồi 1934





Nhạc Tài Tử Miền Nam
Ca nhạc pḥng Huế phát triển về phía Nam và ở Quảng Nam, Quảng Ngăi, v́ những bài như Lưu Thủy, Phú Lục ở Thừa Thiên bây giờ mang thêm hơi điệu mới cho nên được gọi là Lưu Thủy Quảng, Phú Lục Quảng.



Vào tới miền Tiền Giang, Hậu Giang Nam Việt, ca nhạc pḥng với bài bản của Ca Huế nay mang tên Nhạc Tài Tử Miền Nam, với ít nhiều thay đổi như B́nh Bán miền ngoài nay thành ra B́nh Bán Chấn(tức là chấn hưng) và được bổ sung bằng những bài bản mới như Tứ Đại Oán, B́nh Xa Lạc Nhạn, Thanh Dạ Đề Quyền...

Trong những bài bản mới của Nhạc Tài Tử Miền Nam có bài Dạ Cổ Hoài Lang soạn ra năm 1917 bởi ông Sáu Lầu, nhờ ở sự thành lập và phát triển của sân khấu Cải Lương Nam Kỳ mà trở thành bài Vọng Cổ


Tac Gia : Pham Duy



__________________
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard