Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Doc Bao Khap Noi


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
Doc Bao Khap Noi


 Đức quốc xă - Quá tŕnh h́nh thành và phát triển



Ngày 24/2/1920, một cuộc họp công khai lớn đầu tiên của một đảng chính trị nhỏ có tên là Đảng Công nhân Đức đă được tổ chức. Tại cuộc họp này, Adolf Hitler, với tư cách người phát ngôn của Đảng, đă công bố chương tŕnh hành động 25 điểm của đảng trong đó có các điểm yêu cầu hành động để thống nhất và mở rộng phạm vi nước Đức, loại bỏ Hiệp ước Versailles, tiêu diệt người Do Thái,... Cuộc họp đă đánh dấu những bước đầu tiên trong chương tŕnh hành động của Nazi, Đảng của Đức quốc xă.

Đảng Quốc xă của Đức có nguồn gốc từ Đảng Công nhân Đức (GWP). Gia nhập GWP từ năm 1919, khi mới 30 tuổi, Adolf Hitler đă có tham vọng phát triển Đảng này và đă có nhiều nỗ lực thực hiện tham vọng này.

Đảng Công nhân Đức bao gồm một Uỷ ban điều hành có bảy thành viên, trong đó có cả Adolf Hitler. Để thu hút thêm thành viên mới vào tổ chức, Hitler phải chuẩn bị các giấy mời để cho các thành viên trong uỷ ban gửi cho bạn bè, mời họ đến dự các cuộc họp công khai của Đảng này, tuy nhiên, có rất ít người đến.

Uỷ ban điều hành có sáng kiến in giấy mời gửi đến các cửa hàng nhưng cũng chỉ có một số người đến. Sau đó họ rao tin trên mục quảng cáo của một tờ báo ở Munich và theo yêu cầu của Hitler, cuộc họp công khai đă được chuyển xuống một hầm bia có thể chứa được 100 người. Tại cuộc họp được tổ chức ngày 16/10/1919, đă có hơn 100 người có mặt.

Hitler được cử làm một người phát ngôn cho cuộc họp. Đó là lần đầu tiên Hitler được cử làm người phát ngôn cho tổ chức này, mặc dù trước đó các thành viên trong uỷ ban điều hành cũng tỏ ư nghi ngờ về tài năng của Hitler. Tuy nhiên, khi Hitler lên tiếng, mọi người đều ngạc nhiên với phong thái của ông ta. Đối với Hitler, đây là một khoảnh khắc quan trọng trong quăng đời hoạt động chính trị của ông. Hitler đă miêu tả lại giây phút đó trong một cuốn sách của ông như sau: "Tôi phát biểu trong ṿng 30 phút, và những ǵ tôi đă nói chứng tỏ một điều là tôi cũng có khả năng diễn thuyết trước công chúng. Sau 30 phút đó, mọi người trong pḥng họp đă bị kích động thực sự và sự nhiệt t́nh lần đầu tiên đă được thể hiện khi tôi kêu gọi sự hy sinh của những người có mặt và kết quả là dẫn đến sự quyên góp được 300 mác."

Số tiền đó đă được sử dụng để mua quảng cáo và in các tờ rơi. Đảng Công nhân Đức từ đó đă coi Hitler là một yếu tố thu hút chính của cuộc họp. Trong bài diễn thuyết của ḿnh, Hitler chỉ trích Hiệp ước Versailles và có một đoạn dài nói về thái độ chống lại chủ nghĩa Xêmít, buộc tội những người Do Thái đă gây ra các vấn đề của nước Đức. Đảng này ngày càng thu hút được nhiều người tham gia.

Chính Hitler là người chịu trách nhiệm về các chương tŕnh tuyên truyền vào đầu năm 1920, và tuyển mộ tân binh mà ông biết từ thời c̣n ở trong quân đội. Ông ta được sự hỗ trợ của Đại tá Ernst Rưrhm, một thành viên mới của Đảng GWP, một người đă đóng vai tṛ tối quan trọng trong sự nổi lên giành quyền lực của Hitler.

Tại Munich, có rất nhiều người lính tại ngũ hoặc những người cựu chiến binh thường khó thích nghi hoặc xa lánh sự đời có nhu cầu phiêu lưu và căm ghét nền hoà b́nh và một nền dân chủ công hoà do Hiệp ước Versailles đem lại. Số người như họ gia nhập vào Đảng Công nhân Đức ngày càng nhiều.

Tháng 2/1920, Hitler đă yêu cầu Đảng công nhân Đức mở cuộc mit tinh công khai lớn đầu tiên. Ông ta gặp phải sự chống đối từ những người đứng đầu đảng này v́ họ sợ rằng chưa đến thời điểm thích hợp và họ sợ cuộc họp sẽ bị những người theo chủ nghĩa Mác phá hỏng. Tuy nhiên, Hitler không sợ điều này. Trên thực tế Hitler c̣n hoan nghênh nó, và biết rằng điều này sẽ khiến cho đảng chống Mác xít của ông ta được nhiều người biết đến. Thậm chí ông ra đă cho sơn pḥng họp màu đỏ để chọc giận những người Cộng sản.

Ngày 24/2/1920, cuộc họp diễn ra với sự có mặt của rất nhiều người thuộc phái Cộng sản. Vài phút sau khi Hitler lên tiếng, bắt đầu có những tiếng la ó, căi lộn giữa những người thuộc Đảng Công nhân và những người Cộng sản. Tuy nhiên, cuối cùng, Hitler đă tiếp tục được bài phát biểu và trong cuốn sách của ḿnh, ông ta viết rằng tiếng la ó đă bị tiếng vỗ tay tán thưởng át đi.

Chính trong cuộc mít tinh này, Hitler đă thảo ra 25 điểm trong chương tŕnh hành động của Đảng Công nhân bao gồm các điểm chính:

- Thống nhất và mở rộng phạm vi nước Đức, bác bỏ Hiệp ước Versailles, yêu cầu có thêm lănh thổ cho người Đức, không một người Do Thái nào được cấp giấy chứng nhận là công dân nước Đức, tất cả mọi khoản thu nhập không do lao động đều bị sung công, xây dựng lại hệ thống giáo dục quốc gia, tự do tôn giáo ngoại trừ những tôn giáo chống lại dân tộc Đức, và một chính phủ trung ương mạnh với sự thừa hành của hệ thống luật pháp hữu hiệu.

Mùa hè năm 1920, Hitler chọn biểu tượng cho tổ chức, đó là h́nh chữ thập ngoặc. Biểu tượng này không phải là do Hitler sáng tạo ra, mà là một biểu tượng được t́m thấy trong di sản để lại từ thời kỳ cổ đại. Hitler đă nh́n thấy nó hàng ngày khi c̣n học tại một tu viện ở Lambach, A'o. Tu viện cổ này được trang hoàng bằng những mảnh đá khắc và một số đồ gỗ có các h́nh chữ thập ngoặc.

Hitler giải thích rằng biểu tượng này khi được đặt trong một ṿng màu trắng và nền đỏ, nó tạo ra một biểu tượng có sức mạnh to lớn, nhanh chóng được công nhận và nhanh chóng giúp đảng của ông ta nhận được sự ủng hộ rộng răi. Hitler nói: "Màu đỏ là xă hội, màu trắng là dân tộc, và h́nh thập ngoặc là cuộc đấu tranh của người Arian và đồng thời là chiến thắng của sự sáng tạo, tất cả đều mang ư nghĩa chống Xêmít." Cũng chính v́ lư do đó, tên của Đảng Công nhân Đức được thay đổi, trở thành Đảng Công nhân Xă hội Dân tộc Đức (tiếng Đức là Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei - NSDAP), gọi tắt là Nazi.

Vào thời điểm cuối năm 1920, tổ chức này có khoảng 3000 thành viên.

Đảng của Đức quốc xă đặt trung tâm ở Munich, nơi đă trở thành ḷ hoạt động của những người Đức theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu hoạt động. Đảng này bao gồm các sĩ quan quân đội có mục tiêu tiêu diệt những người theo chủ nghĩa Mác và làm suy yếu hoặc tiêu diệt nền dân chủ non trẻ ở Berlin.

Đảng này vẫn nằm dưới sự lănh đạo của một uỷ ban điều hành trong đó các thành viên của uỷ ban đang bắt đầu coi Hitler là một người hống hách, độc đoán. Để làm suy yếu địa vị của Hitler, họ đă lập một liên minh với một nhóm các nhà xă hội chủ nghĩa đến từ Ausburg. Khi Hitler quay trở lại Munich, ông ta tuyên bố từ chức lănh đạo đảng vào ngày 11/7/1921. Tuy nhiên, những người trong Đảng nhận ra rằng việc mất Hitler sẽ có nghĩa là chấm dứt sự tồn tại của Nazi. Biết được điều đó, Hitler ngay lập tức nắm thời cơ và tuyên bố ông ta chỉ quay trở lại với điều kiện ông ta phải là chủ tịch đảng và có quyền quyết định mọi vấn đề. Uỷ ban điều hành của Đảng Quốc xă cuối cùng đă ủng hộ và yêu cầu của Hitler đă được đưa ra bỏ phiếu. Kết quả, Hitler đă nhận được 543 phiếu ủng hộ và chỉ có 1 phiếu chống. Tại cuộc họp tiếp theo vào ngày 29/7/1921, Adolf Hitler được giới thiệu là Chủ tịch Đức Quốc xă.

11/1923, với 55.000 người ủng hộ, trở thành một đảng lớn nhất và được tổ chức tốt nhất. Năm đó, Đảng này tổ chức đảo chính nhưng họ đă thất bại. Hitler ra toà với tội phản quốc.

Đức quốc xărở nên rời rạc sau thất bại của cuộc nổi dậy, tuy nhiên, Hitler lại giành thêm được nhiều ảnh hưởng và ngày càng nổi tiếng. Ngồi trong tù, Hitler vẫn không ngừng liên lạc với thế giới bên ngoài, và truyền lệnh qua người thư kư của ông ta là Rudolph Hess. Trong thời gian này, Hitler đă nói về những người Do Thái như những người ăn bám, dối trá, quỷ quyệt, bẩn thỉu, ranh mănh, xảo quyết, giả nhân giả nghĩa, lắm mưu nhiều kế, không có một nền văn hoá thực sự, có những ư nghĩ kỳ quái, .....

Một ngày trước ngày lễ Noel năm 1924, Adolf Hitler được trả tự do.

Ngày 27/2/1924, những người Đức quốc xă tổ chức cuộc họp lớn đầu tiên sau thất bại của cuộc nổi dậy và tại đây, Hitler đă tuyên bố ḿnh là lănh đạo tối cao của Đảng và suốt trong hai giờ diễn thuyết trước công chúng bao gồm 4 ngh́n người, Hitler đă truyền bá ư tưởng về nguy cơ chống lại những người dân chủ cộng hoà, những người theo chủ nghĩa Mác và những người Do Thái.

Tháng 5/1926, Hitler trở thành lănh tụ tối cao của Đức quốc xă.

30/3/1933, một chương mới trong lịch sử nước Đức mở ra với việc Adolf Hitler trở thành Thủ tướng Đức. Từ đây, Nazi trở thành Đảng cầm quyền Đức với những chính sách chiến tranh và giết người rất tàn bạo.

Một số điều chưa biết về Đức Quốc xă

Các phương tiện tuyên truyền

Một trong những điểm mấu chốt khiến cho Nazi có thể dành được quyền lực là họ có thể kiểm soát được việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng việc kiểm soát được việc phải nói điều ǵ, Nazi có thể thay đổi được hoàn toàn mức độ quan trọng của sự việc. Các thành ngữ mà họ tạo ra đóng vai tṛ như một thứ ngôn ngữ chính, ngôn ngữ để tuyên truyền và dùng để nguỵ trang. Chính trong những ngôn ngữ này mà Joseph Goebbels, người được coi là Bộ trưởng thông tin tuyên truyền của Đức, đă chuyển những thông điệp của ḿnh một cách khéo léo. Ví như họ dùng từ Gleichschaltung (tiếng Anh là Coordination = phối hợp) trên thực tế lại có nghĩa là trử khử những thành phần đối lập chính trị và thực hiện quyền kiểm soát của Nazi đối với các cơ quan nhà nước và các tổ chức quần chúng ở Đức. Kỹ năng ngôn ngữ này được đặc biệt sử dụng trong việc thực hiện chính sách chống lại người Do Thái, và ở đây nó được thảo ra với các vai tṛ đặc biệt.

Những từ ngữ và những cấu trúc câu với ư nghĩa trung lập và tích cực thường lại được dùng để chỉ những hành động khủng bố hay huỷ diệt. Mục đích là để che dấu các hành động đó trước khi dư luận thế giới cũng như công chúng Đức nhận ra, và để đánh lừa chính những người Do Thái, những người không thể hiểu được những ǵ đang chờ đợi họ và do đó không có những hành động pḥng ngừa. Thủ thuật này giúp loại bỏ các cản trở. Tuy nhiên, dần dần các thủ thuật này cũng trở nên không cần thiết và đă dần dần bị loại bỏ khi các hành động trừ khử người Do Thái trở nên thông thường và cho đến khi Hitler nhận thấy cần có một lệnh đặc biệt vào ngày 11/7/1943. Trong đó Hitler sử dụng thuật ngữ: "Giải pháp cuối cùng" đối với vấn đề Do Thái mà không sử dụng thuật ngữ: "tiêu diệt"

Một cách khác mà Đức Quốc xă sử dụng để tác động vào tư duy của người đức là việc sử dụng các phương tiện điện tử để tuyên truyền, chẳng hạn bộ phim "Chiến thắng của ư chí". Bộ phim có ư nghĩa thuyết phục người Đức đi theo những lời kêu gọi của họ, trở thành những người chiến thắng. Nhiều người đă bị ảnh hưởng bởi bộ phim và đă đi theo ĐQX. Nazi đă sử dụng bộ phim biến Hitler thành một vị thánh.

Kiểm tra chủng tộc bằng việc đo mắt, mũi, đầu...

Bởi Hitler có thể làm cho người Đức tin rằng họ là dân tộc thượng đẳng, Geobbels cũng có thể chứng minh rằng người Do Thái là dân tộc hạ đẳng bằng các cuộc kiểm tra vật lư.

Họ bắt đầu thực hiện các cuộc kiểm tra mắt, mũi và đầu. Nếu khuôn mặt của ai đó không được h́nh thành theo "đúng" cách theo quy định, th́ họ sẽ bị coi là người Do Thái hay những người hạ đẳng khác.

Có một kiểu kiểm tra thông dụng ở Đức hồi đó là những người Arian đều có mắt xanh, do đó những ai có mắt màu tối được xác định không phải là người Arian hoàn hảo.

Một cách khác là đo kích thước đầu. Một cái đầu có h́nh dạng rơ ràng th́ đúng là người Arian, và những người không có đặc điểm đó được coi là người Do Thái. Nếu bạn có một cái mũi lớn, bạn sẽ gặp khó khăn. Một người Arian điển h́nh sẽ có chiếc mũi nhỏ hơn.

Viêc chứng minh được những người Do Thái thuộc dân tộc hạ đẳng sẽ khiến cho cả đất nước nghe theo Hitler và chống lại họ. Giết hại người Do Thái trở nên một hành động đúng đắn v́ họ không phải là con người, họ làm hỏng sự tinh khiết của xă hội Đức, và nói chung họ chỉ là những kẻ ăn hại mà thôi. Và cuộc thảm sát những người Do Thái tàn khốc nhất trong lịch sử diễn ra trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai là một vết đen trong lịch sử và không dễ ǵ có thể t́m được sự tha thứ trong cộng đồng quốc tế.
Suu Tam

__________________


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương “đạo văn” như thế nào? 


Nguyễn Hoà
 


      Nếu ai quan tâm tới cuốn sách Văn hóa người Mông ở Nghệ An (NXB Văn hóa dân tộc, H.2000) của Hoàng Xuân Lương hẳn khó có thể đặt ra vấn đề nghi ngờ chất lượng của nó. Bởi như lời tác giả th́ cuốn sách có nguồn gốc từ một đề tài khoa học do ông làm chủ nhiệm, rồi “từ kết quả đó, tôi (Hoàng Xuân Lương - NH) đă lư giải các vấn đề văn hóa người Mông trên các luận cứ khoa học để bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Điều kiện h́nh thành và các đặc trưng văn hóa dân tộc Mông ở Nghệ An” (tr.7,8), và cuốn sách đă ra đời sau 5 năm tác giả “thu thập thêm tư liệu bằng các cuộc điền dă” (tr.7). Song với tôi, đọc xong cuốn sách này lại chỉ thấy buồn thay cho tác giả, v́ ông đă lẻn vào lâu đài khoa học theo lối “cửa sau”, v́ ông đă góp phần làm “xấu mặt” giới khoa học nước nhà, và v́ ông đă tảng lờ sự liều lĩnh của những hành vi do ông tiến hành trong cuốn sách. Vậy thực chất các “luận cứ khoa học”, “các cuộc điền dă” của Hoàng Xuân Lương là ǵ, xin bạn đọc chịu khó “dơi theo” những thao tác mà Hoàng Xuân Lương đă thực hiện trong Văn hóa người Mông ở Nghệ An để thấy những “cống hiến” khoa học của ông.


      1. Cuốn sách Văn hóa người Mông ở Nghệ An gồm ba chương - như cấu trúc thường thấy của các luận văn luận án ở Việt Nam lâu nay, nhưng do cấu trúc của nó không phải là kết quả tất yếu từ những ǵ Hoàng Xuân Lương đă dày công nghiên cứu, mà chủ yếu được “gợi ư” từ cuốn sách Văn hóa HMông của Trần Hữu Sơn (NXB Văn hóa dân tộc, H.1996), nên Hoàng Xuân Lương đành bằng ḷng với việc “thuổng” nội dung, và sắp xếp, sửa đổi một số tiêu đề để không gây chú ư. Ví dụ: nếu ở trang 96 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn có một tiêu đề nhỏ là Thần thoại, th́ ở trang 125 của Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương thiết kế tiêu đề Quan niệm về vũ trụ, về con ngươi, và các nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người rồi “tống” vào đó toàn bộ các nội dung từ thần thoại đến lễ cúng khi sinh đẻ, lễ chọn bố mẹ nuôi, lễ cúng ma tươi…, vốn là các nội dung được Trần Hữu Sơn tŕnh bày trong phần Lễ thức dân gian!


      2. Nhưng vấn đề quan thiết hơn cả trong cuốn sách Văn hóa người Mông ở Nghệ An là Hoàng Xuân Lương đă “đạo văn” không một chút ngượng ngùng từ tác phẩm của Trần Hữu Sơn, ông chép thả dàn theo lối viết chính tả, đôi khi có “mông má” đôi chút để chứng tỏ ông cũng chịu khó “tư duy”. Thử điểm qua vài đoạn:


      a. Về thờ cúng tổ tiên của người Mông:


      - Trang 44 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “Tổ tiên thuộc loại ma lành phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên nếu không thờ cúng cẩn thận, tổ tiên cũng có thể bắt phạt, làm cho con cháu ốm đau. Hoặc đôi khi tổ tiên đói c̣n về đ̣i trâu lợn…”


      - Trang 180 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Ma tổ tiên là loại ma lành, nhưng theo người Mông quan niệm nếu không thờ cũng chu đáo th́ ma tổ tiên cũng có thể bắt phạt đau ốm, đ̣i phải làm lễ cũng ḅ, lợn…”.


      b. Về gia đ́nh của người Mông:


      - Trang 26 và trang 27 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “Gia đ́nh HMông là một đơn vị kinh tế, phân công lao động trong gia đ́nh rất chặt chẽ theo giới tính và lứa tuổi. Người nam giới đảm nhận toàn bộ công việc của nương rẫy, cày nương, chặt cây, cuốc đất, mua bán, chăn nuôi… Ngày mùa phụ nữ phải lao động từ 15 đến 18 tiếng một ngày. Người già, trẻ nhỏ phụ giúp làm nương, cắt cỏ ngựa, kiếm củi, chăn lợn, chăn trâu… Guồng máy lao động gia đ́nh HMông khá chặt chẽ…”.


      - Trang 69 và trang 70 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Gia đ́nh người Mông là một đơn vị kinh tế, sự phân công lao động khá chặt chẽ theo giới tính và lứa tuổi. Đàn ông làm các công việc nặng như cày, chặt cây, cuốc đất… Những ngày mùa, người phụ nữ phải lao động từ 15 đến 18 tiếng đồng hồ. Người già và trẻ em th́ phụ giúp làm nương, cắt cỏ ngựa, kiếm củi, chăn trâu… Guồng máy lao động trong gia đ́nh người Mông liên tục chặt chẽ…”!


      c. Về Ma cửa:


      - Trang 45 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “X́a mềnh (ma cửa - NH) có nhiệm vụ như người lính gác cửa, ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cảI, bảo vệ các hồn ngăn không cho hồn các thành viên gia đ́nh bỏ đi. Khi nào súc vật chết v́ bệnh tật, hoặc bị hổ vồ là do ma cửa bị ngă. Cũng có khi người đàn bà có thai ở gia đ́nh khác bước qua ngưỡng cửa, ma cửa cũng bị ngă. Do đó cần làm lễ nâng ma cửa dậy…”.


      - Trang 194 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Ma cửa giống như người gác cửa, không cho các điều xấu xâm nhập vào gia đ́nh, bảo vệ của cải, gia súc, giữ các hồn của gia đ́nh, không cho các hồn bỏ đi. Người Mông quan niệm khi trong nhà có chuyện không hay như đau ốm, gia súc bị chết là do ma cửa bị ngă, không giữ được bản mệnh; người phụ nữ có thai ở một gia đ́nh khác, bước qua cửa nhà ḿnh th́ cũng làm ma cửa bị ngă, khi đó, phải làm lễ cúng để nâng ma cửa dậy…”.


      d. Về ḍng họ của người Mông:


      - Trang 28 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “Những người cùng ḍng họ là anh em cùng họ, cùng tổ tiên “cư tê thông xếnh thông đang” (Gư têx thôngx xênhx thôngx đangx). Từ xưa những người cùng ḍng họ là do một ông tổ “Pù dâu” sinh ra. Nhưng ông tổ này không cụ thể nên kư ức về ông tổ rất mờ nhạt, chung chung… V́ vậy khi muốn nhận ra anh em cần xem xét các dấu hiệu, các điều kiêng kị và nghi lễ cúng bái riêng của ḍng họ. Các điều kiêng kỵ này thường là kiêng ăn một số loài thú hoặc bộ phận thú. Ví dụ ḍng họ Giàng kiêng ăn tim, một số ḍng họ Hờ kiêng ăn thịt khỉ, họ Lư kiêng ăn lá lách… Mỗi điều kiêng kỵ đều kèm theo một câu chuyện giải thích lư do tại sao phải kiêng. Đặc biệt mỗi ḍng họ c̣n có nghi lễ cúng bái làm ma riêng biệt”.


      - Trang 61 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Người Mông quan niệm, anh em cùng ḍng họ là cùng một ông tổ sinh ra (Gư têx thôngx xênhx thôngx đangx) nhưng kư ức về ông tổ này không cụ thể. V́ vậy khi muốn nhận nhau là anh em th́ người Mông phải xem xét các dấu hiệu, các điều kiêng kỵ và nghi lễ cúng bái riêng của ḍng họ. Mỗi ḍng họ đều kiêng kỵ một số loài thú, hoặc một vài bộ phận của thú. Chẳng hạn họ Già kiêng ăn tim súc vật, họ Hờ kiêng ăn thịt khỉ, họ Lư kiêng ăn lá lách… Mỗi điều kiêng kỵ đều kèm theo một câu chuyện giải thích lư do v́ sao phải kiêng. Đặc biệt mỗi ḍng họ có những nghi lễ cúng bái, làm ma riêng biệt…”!


      e. Về trang trí dân gian trên trang phục:


      - Trang 140 và trang 141 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “Trang phục phụ nữ HMông hoa không khoe vẻ đẹp cơ thể qua kỹ thuật cắt, khâu làm nổi rơ đường nét thân h́nh như trang phục phụ nữ Thái mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn… Tập quán của người HMông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của phụ nữ phản ánh qua khả năng thêu thùa, qua bộ trang phục mặc trong lễ cưới. Tục ngữ HMông đă đánh giá đúng vẻ đẹp của người phụ nữ “Muốn biết người tốt xem gác bếp, muốn hay người đẹp xem quần áo”… Người giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao, coi trọng… Trước khi đi làm dâu, cô gái được mẹ tặng cho bộ váy áo, như của hồi môn. Khi về nhà chồng, cô gái phải chuẩn bị bộ váy áo đẹp tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Người phụ nữ giàu có là người phụ nữ có nhiều váy đẹp, có nhiều đồ trang sức quư…”.


      - Trang 100 và trang 101 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Trang phục phụ nữ Mông không khoe vẻ đẹp cơ thể, qua kỹ thuật cắt khâu làm nổi rơ đường nét thể h́nh như trang phục của phụ nữ Thái, Thổ… Người Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp, đức hạnh của người phụ nữ qua khả năng thêu, dệt, qua bộ trang phục trong các ngày hội: “Muốn biết người tốt th́ xem gác bếp, muốn hay người đẹp th́ xem áo quần”. Người phụ nữ giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao tôn trọng… Trước khi đi làm dâu, người mẹ tặng cho con gái bộ váy, áo coi như của hồi môn. Khi về nhà chồng rồi, cô gái lại thêu dệt váy áo để tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Người phụ nữ giàu có là người có nhiều váy áo đẹp, nhiều đồ trang sức quư”! v.v.. và v.v…


      3. Đối với một công tŕnh khoa học, dù ở mức độ nào, bao giờ người ta cũng chú ư tới những giải pháp có tính khả thi do người nghiên cứu đề xuất sau khi mô tả, phân tích, đánh giá về đối tượng. Riêng với Văn hóa người Mông ở Nghệ An, chắc hẳn v́ quá nhiều nội dung được Hoàng Xuân Lương tŕnh bày không có nguồn gốc từ lao động cá nhân mà có nguồn gốc từ hành vi “đạo văn” nên ông buộc phải “thuổng” luôn cả giải pháp do người khác đề xuất. Điều này được chứng minh rất đầy đủ qua đề mục Xây dựng môi trường có văn hóa với các trang 254, 255, 256 của Văn hóa người Mông ở Nghệ An được Hoàng Xuân Lương “thuổng” bằng cách lắp ghép nhiều đoạn từ các trang 233, 234, 235, 236 của Văn hóa HMông mà Trần Hữu Sơn sử dụng để tŕnh bày kiến nghị về vấn đề Xây dựng môi trường có nếp sống văn hóa. V́ Hoàng Xuân Lương “thuổng” tràn qua mấy trang sách, nên ở đây tôi chỉ xin trích một đoạn tiêu biểu:


      - Trang 235 Văn hóa HMông, Trần Hữu Sơn viết: “Xây dựng gia đ́nh văn hóa bên cạnh vấn đề quan tâm xây dựng các mối quan hệ ứng xử trong gia đ́nh và giữa các thành viên gia đ́nh và xă hội cần coi trọng xây dựng nếp sống trật tự, vệ sinh nơi ở với các yêu cầu cụ thể: + Làm chuồng trại gia súc, không nhốt gia súc trong nhà. + Có công tŕnh vệ sinh”.


      - Trang 255 Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương viết: “Xây dựng gia đ́nh văn hóa bên cạnh vấn đề quan tâm xây dựng các mối quan hệ ứng xử trong gia đ́nh và giữa các thành viên gia đ́nh và xă hội cần coi trọng xây dựng nếp sống trật tự, vệ sinh theo các yêu cầu cụ thể: + Làm chuồng trại gia súc, không nhốt gia súc trong nhà. + Có công tŕnh vệ sinh riêng”.


      4. Xét trong tư cách một cuốn sách, một công tŕnh khoa học, ngoài t́nh trạng “đạo văn” đến mức cần phải phê phán, cuốn sách Văn hóa người Mông ở Nghệ An c̣n là một sản phẩm cẩu thả, tùy tiện về biên tập. Cuốn sách nhan nhản những lỗi chính tả và ngữ pháp, thậm chí ở phần danh mục tài liệu tham khảo, tên tác giả của tài liệu cũng không chính xác (ví dụ: X.A.Tôcarev thành Jocarev chẳng hạn!). Và nếu đọc kỹ, c̣n có thể nhận thấy một điều khôi hài là cuốn sách in xong và nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2000 nhưng ở trang 264 lại thấy một biểu đồ có tên gọi “Tổng hợp t́nh h́nh chung các xă có đồng bào Mông ở Nghệ An tháng 10 năm 2000”, tức là biểu đồ này có mặt sau khi cuốn sách xuất bản 5 tháng! Rồi có lẽ muốn chứng tỏ Văn hóa người Mông ở Nghệ An gắn liền với các cuộc điền dă gian nan của tác giả, nên Hoàng Xuân Lương cho in kèm theo cuốn sách năm bảy bức ảnh ghi lại dấu tích của ông trên các nẻo đường đă qua. Nhưng căn cứ vào ghi chú dưới các bức ảnh th́ có thể rút ra kết luận rằng tác giả chỉ loanh quanh ở bản Nặm Cắn huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An. Điều này, xem ra cũng hợp lư v́ khi đă “đạo văn” th́ người ta không nhất thiết phải “điền dă” trên thực địa, mà chỉ cần “điền dă tại gia” là đủ!  


      Như vậy qua “luận cứ khoa học” và “các cuộc điền dă”, dường như Hoàng Xuân Lương ngỡ rằng chỉ cần trưng ra mấy cụm từ ghê gớm đó là đă chứng tỏ ông rất nghiêm túc, là cuốn sách có đủ sức thuyết phục, là con đường khoa học đă mở rộng thênh thang trước ông. Nhưng than ôi! Liệu có mấy người nhận ra phía sau những lời tự giới thiệu đầy tự tin, lại là một mớ kiến thức mà Hoàng Xuân Lương đă trắng trợn “thuổng” từ sách vở của người khác? Và nếu trong Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Hoàng Xuân Lương có đề cập tới các vị Saman - thầy phù thủy, th́ theo tôi, cuốn sách c̣n chứng tỏ Hoàng Xuân Lương cũng là một “phù thủy hạng xoàng” trong khi “úm ba la” biến tài sản tinh thần của người khác thành tài sản của chính ḿnh. Và bởi Văn hóa người Mông ở Nghệ An có liên quan tới công tŕnh khoa học, tới luận văn, luận án của Hoàng Xuân Lương, nên tôi không thể không đặt câu hỏi về chất lượng thật sự của chúng, liệu chúng có phải là những công tŕnh “đạo văn”? 



__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

Vũ Đông Ngọc
Nghiên cứu về Trịnh Công Sơn: Một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ tại Việt Nam với số điểm tối đa có vấn đề trầm trọng
 

Trịnh Công Sơn là một trong những hiện tượng đặc thù của âm nhạc Việt Nam. Cũng đặc thù như thế là dấu ấn sáng tạo của ông trong ngôn ngữ văn học Việt. Nhiều nghệ sĩ và nhiều nhà nghiên cứu văn học có uy tín, cả trong lẫn ngoài nước, khi nghiên cứu về ca từ của Trịnh Công Sơn, đă công nhận điều này. Việc tiếp tục nghiên cứu và đào sâu vào những vỉa tầng khác nhau trong sáng tác của người nhạc sĩ này là một việc làm cần thiết và có ư nghĩa. Cũng như những nghệ sĩ, những nhà văn, nhà thơ và những nhà văn hoá lỗi lạc khác của Việt Nam, Trịnh Công Sơn đă có những đóng góp của ḿnh vào việc làm phong phú và đẹp đẽ hơn nữa gia tài văn hoá Việt. Đặc biệt đối với Trịnh Công Sơn, đóng góp của ông nổi bật lên trong lănh vực ngôn ngữ. Ông đă làm mới lạ cách diễn tả t́nh ư của con người Việt Nam, đặc biệt trong khía cạnh t́nh yêu và thân phận con người trong cuộc chiến cũng như trong chuyến đi lữ thứ của nó về cơi vĩnh hằng. Ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn để diễn tả cuộc chiến tàn bạo của lịch sử Việt hậu bán thế kỷ XX, cái nh́n của ông về phận người giữa cơi vô thường là cuộc đời này, tiếng đập ngọt ngào yêu thương và thiết tha nhân ái trong trái tim ông khi nói về t́nh yêu nam nữ nói riêng, hoặc t́nh yêu giữa người và người nói chung, đă là những dấu ấn khó phai trong tâm thức con người Việt Nam hiện đại.

Những t́m hiểu, nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, từ nhiều góc độ, như thế, là những nỗ lực có ư nghĩa trong sự t́m hiểu chính ḿnh của chúng ta, nếu ta khách quan nh́n nhận vai tṛ đặc thù của âm nhạc, thi ca, ngôn ngữ, và những sáng tạo trong lănh vực văn học nghệ thuật nói chung, như những yếu tố phản ánh và giúp những thành viên trong một cộng đồng người nh́n rơ chính chân dung ḿnh.

Trong hơn năm năm qua, kể từ khi Trịnh Công Sơn ra đi, đă có nhiều bài viết và nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, cả trong lẫn ngoài nước. Nhiều tuyển tập tổng hợp những tài liệu và các bài viết về người nhạc sĩ này đă ra đời, cho chúng ta những hiểu biết thêm về con người, đời sống cũng như những khía cạnh đẹp đẽ, tài hoa trong sáng tác của ông. Là một người yêu thích văn học nói chung và cũng yêu thích các sáng tác của Trịnh Công Sơn nói riêng, tôi đă có cơ hội đọc và thu góp được nhiều tài liệu về người nhạc sĩ này. Trong nước, có nhiều tuyển tập. Hầu hết đều giới thiệu những bài viết ngắn, từ hai cho đến khoảng 15 trang, cho ta những cái nh́n nghiêng, những “bán diện” của Trịnh Công Sơn, qua mắt nh́n của những người viết. Đặc biệt, về nội dung và cách tŕnh bày, nổi bật lên cuốn sách của Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (Trịnh Công Sơn (1939 – 2001) - Cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng) và tuyển tập Một cơi Trịnh Công Sơn của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha và Đoàn Tử Huyến. Trong hai tuyển tập này, ngoài bài viết của những tác giả trong nước, có nhiều bài viết của những tác giả không sống ở Việt Nam. Ở ngoài nước, có những tuyển tập đặc biệt về Trịnh Công Sơn, với những bài viết đa số là dài hơi hơn so với những bài viết trong nước, của các tạp chí sáng tác, nhận định văn nghệ như Văn Học, Văn, Hợp Lưu...

Trong thời gian một, hai năm trở lại đây, về đề tài Trịnh Công Sơn, trong nước nổi bật lên cuốn sách Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (nhà xuất bản Trẻ, 2004) của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn của người nhạc sĩ. Cuốn sách là một tập hợp nhiều bài viết mang tính đoản văn, tuỳ bút, pha với phần nào tính chất kư và tự truyện, cho người đọc thấy được chân dung đời thường của người nhạc sĩ, được nh́n ngắm từ những góc độ đời thường pha lẫn một chút triết lư của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người có được những nét tài hoa trong tạp bút và kư, lại là bạn thân của Trịnh Công Sơn, nên cuốn sách của ông có những nét đặc biệt riêng, chiếu rọi được những “cận ảnh” đời thường mà những tác giả khác khó nh́n thấy. Ở ngoài nước, có cuốn Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (nhà xuất bản Văn Mới, 2005) của Bùi Vĩnh Phúc. Đây là chuyên luận của một nhà lư luận phê b́nh hiện sống tại Mỹ. Ông dạy Anh văn cũng như ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam tại đại học Mỹ. Là một nhà lư luận phê b́nh văn học, cùng với các nhà phê b́nh lư luận như Nguyễn Hưng Quốc, Đặng Tiến và một vài người khác nữa, được nhiều độc giả văn học quan tâm theo dơi và đánh giá cao [1] , trước chuyên luận về Trịnh Công Sơn này, Bùi Vĩnh Phúc đă cho ra mắt nhiều tác phẩm mà cuốn sách tương đối gần đây của ông được nhiều người chú ư là cuốn Lư luận và phê b́nh - Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước (1975 – 1995). Cuốn chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc có thể nói là cuốn sách nghiên cứu dài hơi và chuyên sâu đầu tiên [2] về Trịnh Công Sơn có tính văn học, thậm chí văn chương, về ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của người nhạc sĩ, với một phương pháp luận đặc biệt [3] .

Gần đây nhất, trên báo Văn Học (số 232, tháng 7 & 8.2006), một tạp chí sáng tác và nhận định văn nghệ xuất bản tại Mỹ, người ta thấy có đăng bài “Thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn” của Ban Mai. Toàn bài, chiếm 69 trang báo Văn Học, được đăng với lời giới thiệu: “Ban Mai tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thuư, hiện đang làm việc tại một trường đại học tại miền Nam Trung bộ Việt Nam. Tháng Tư 2006 bảo vệ luận văn thạc sĩ đầu tiên ở Việt Nam về đề tài ca từ Trịnh Công Sơn với số điểm tuyệt đối 10/10”. Ban Mai cũng đă có hai trích đoạn, lấy từ luận văn này, đăng trên talawas. Dù sao, hai trích đoạn đó không chứa đựng những điều cần được phân tích trong bài viết này.

Tôi đă ṭ ṃ đọc thử luận văn của tác giả Ban Mai trên số báo Văn Học vừa nói. Luận văn này được bố cục thành bốn phần/chủ đề: Một, Cuộc đời và sự nghiệp; hai, Tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn; ba, Thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn; và bốn, Trịnh Công Sơn người ca thơ. Bố cục luận văn cân đối, ngôn ngữ tŕnh bày sáng sủa. Cái đặc biệt cần nhắc đến là tác giả luận văn đă sử dụng được rất nhiều nguồn tài liệu, cả trong lẫn ngoài nước, và đặc biệt là số tài liệu ngoài nước được trích dẫn khá phong phú so với dung lượng bài viết. Điều đó cho thấy tác giả có sự công phu trong việc t́m và chọn lựa những nguồn tài liệu thích đáng cho nội dung khai triển của ḿnh.

Dù sao, lư do để tôi viết bài này là, do cuốn chuyên luận về Trịnh Công Sơn của nhà phê b́nh Bùi Vĩnh Phúc mà tôi đă nhắc đến ở trên đă được phổ biến rộng răi ngoài nước trong khoảng hơn một năm qua, phần chính của chuyên luận lại được phổ biến trên nhiều kênh truyền thông [4] , và do tôi đă đọc nó nhiều lần, tôi đă nh́n thấy là tác giả Ban Mai, ngoài việc trích dẫn Bùi Vĩnh Phúc bốn lần (qua cuốn chuyên luận của ông và qua bài phỏng vấn Bùi Vĩnh Phúc do Phạm Văn Kỳ Thanh thực hiện, phổ biến trên talawas vào tháng 12. 2005), đă sao chép nguyên văn (hoặc gần như nguyên văn, chỉ sửa đổi một vài từ) nhiều đoạn văn dài trong chuyên luận Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của nhà phê b́nh này.

Trước hết, ở đây, tôi xin đưa ra một số dẫn chứng về điều vừa nói. Sau đó, tôi sẽ xin phép thử đưa ra một vài suy nghĩ và nhận định của riêng tôi về một vài vấn đề có liên hệ đến đạo đức và kỹ thuật trong thao tác khoa học của người làm nghiên cứu, một vấn đề đang là mối quan tâm lớn của nhiều người Việt cả trong lẫn ngoài nước.


1. Trong phân đoạn “Ám ảnh về cái vô thường của cuộc đời”, ở trang 56 và 57 trong chuyên luận của ḿnh, Bùi Vĩnh Phúc viết:


Những sự mất mát trong đời sống đă mở mắt cho Trịnh Công Sơn thấy được cái vô thường của đời này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự mất mát, về tính vô thường của đời sống, luôn luôn là một ám ảnh theo sát Trịnh Công Sơn từ những ngày anh c̣n khá trẻ. Có lẽ v́ là một người sống ngay trong một thành phố mà lúc nào bom đạn cũng bủa vây tứ phía, được nh́n tận mặt chiến tranh, nghe và thấy cái chết một cách quá rơ nét trong cuộc đời, Trịnh Công Sơn đă có những cảm nhận sâu xa về những cái mất c̣n của đời sống. Cuộc chiến đă dựng lên những cận ảnh tang tóc và kinh hoàng ngay trong những thành phố mà anh đă từng sống với. Cái c̣n hay mất của tất cả mọi thứ, kể cả t́nh yêu, trong chiến tranh, cũng là một điều mà con người phải kinh nghiệm và chấp nhận. Hạnh Phúc hay Bất Hạnh. Nỗi Buồn hay Niềm Vui. Khổ Đau hay Hoan Lạc. Tất cả chỉ là hai mặt sấp ngửa của Cuộc Đời. Từ đó, người nhạc sĩ nhận ra rằng:

Một hôm bỗng nghe ra buồn vui kia là một
Như quên trong nỗi nhớ (...)
Vườn năm xưa em đă đến
Nay trăng quá vô vi
Giọt sương khuya rụng xuống lá
Như chân ai lần về

(“Nguyệt ca”)

Ở trang 69 của luận văn ḿnh, đăng trên Văn Học, Ban Mai viết:


Những sự mất mát trong đời sống đă giúp cho Trịnh Công Sơn thấy được cái vô thường của đời này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự mất mát, về tính vô thường của kiếp người, luôn luôn ám ảnh theo sát ông từ những ngày ông c̣n khá trẻ. Và cũng có lẽ do thời đại ông sống, là thời đại của bom đạn bủa vây tứ phía, được nh́n tận mặt chiến tranh, nghe và thấy cái chết hằng ngày một cách rơ nét trong cuộc đời, nên Trịnh Công Sơn đă có những cảm nhận sâu xa về những cái mất c̣n của đời sống. Hạnh Phúc hay Bất Hạnh. Nỗi buồn hay niềm vui, khổ đau hay hoan lạc. Tất cả chỉ là hai mặt sấp ngửa của cuộc đời, cuối cùng đời sống con người chỉ như một vết mực:

Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xoá bỏ không hay

(“Cát bụi”)

Vết mực, rồi theo thời gian nó sẽ nhoà đi. Rồi nó sẽ bị bôi xoá. Thực/biến. Có/ không. Đi/về. Đối với ta, giờ đây, cũng chỉ là một đường ranh hư ảo.

Ḍng sông trước kia tôi về, bỗng giờ đây đă khô không ngờ
Ḷng tôi có khi mơ hồ, tưởng ḿnh đang là cơn gió (...)
Chợt tôi thấy thiên thu là, một đường không bến bờ

(“Lời thiên thu gọi")

Phần đầu, khá dài, việc sao chép trong luận văn của Ban Mai gần như nguyên văn. Tác giả chỉ thay đổi một vài chữ và cắt bỏ một đoạn ngắn. Phần sau, về “vết mực”, ta thấy đó là sự lắp ghép từ những trang khác trong chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc. Tại trang 42 của chuyên luận ḿnh, Bùi Vĩnh Phúc viết:


Nh́n vào thiên nhiên, có những lúc Trịnh Công Sơn nh́n thấy ḿnh là chiếc lá phai mờ, là chút mực nhoè...

Ở trang 84, ông viết:


T́nh yêu cuộc sống, t́nh yêu con người, và t́nh yêu quê hương, cuối cùng, đă giúp Trịnh Công Sơn sống trọn vẹn với trần gian này. Cho đến khi “vết mực” kia được bôi xoá đi.

Ở trang 58, ông viết:


Tất cả những kinh nghiệm, những nhận thức ấy càng làm cho anh ư thức hơn nữa cái khoảng ngắn hẹp của thời gian mà chúng ta gọi là đời người này:

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày (...)
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xoá bỏ không hay.

(“Cát bụi")

Phải, đời sống con người cũng chỉ như một vết mực. Rồi nó sẽ nḥe đi. Rồi nó sẽ được xoá bỏ. Thực, biến. Có, không. Đi, về. Đối với ta, bây giờ, tất cả trông chỉ giống như một đường chỉ kéo dài tít tắp.

Ḍng sông trước kia tôi về
Bỗng giờ đây đă khô không ngờ
Ḷng tôi có khi mơ hồ
Tưởng ḿnh đang là cơn gió
Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ phờ
Chợt tôi thấy thiên thu là
Một đường không bến bờ

(“Lời thiên thu gọi")

Ta đă thấy rơ là sự sao chép, lắp ráp trong luận văn của Ban Mai đă được thực hiện một cách khá công phu.


2. Tại trang 76 trong luận văn của ḿnh, Ban Mai viết:


Đời chỉ là một cuộc đi. Đi măi đi măi. Và đi một ḿnh. Đi một ḿnh như thế qua suốt cuộc trần gian này. Nếu có về chốn cũ của ḿnh, ông chỉ nh́n thấy sự hoang vu quạnh quẽ: Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ / Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên (“Tôi ơi đừng tuyệt vọng”). Tất cả những ǵ là êm ấm, gần gũi ngày xưa, bây giờ chỉ c̣n là sự hờ hững, vắng không, tăm tối, khiến cho nỗi cô đơn trong ông càng đầy, càng nặng: Nhà im đứng cửa cài đóng then / Vườn mưa xuống hành lang tối tăm / Về thôi nhé, cổng chào cuối sân / Hờ hững thế loài hoa trắng hồng (“Vườn xưa”).

Đoạn văn này của Ban Mai cũng là một sự lắp ghép công phu khác từ những trang trong chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc. Trong phân đoạn “Ám ảnh về sự cô đơn”, trang 42, Bùi Vĩnh Phúc viết:


Đời chỉ là một cuộc đi. Đi măi đi măi. Và đi một ḿnh. Đi một ḿnh như thế qua suốt cuộc trần gian này:

Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên

(“Tôi ơi đừng tuyệt vọng”)

Nỗi cô đơn luôn vây bủa Trịnh Công Sơn. Cho dù có những lúc gặp gỡ bạn bè, nói cười xôn xao ngoài phố, nhưng khi trở lại với riêng ḿnh, anh chỉ thấy tất cả những niềm vui giữa phố chợ kia cũng giống như những hạt khô rụng rơi lả tả quanh ḿnh:

Tôi như mọi người mong ngày sẽ tới
Nhưng khi về lại thu ḿnh góc tối
Trong tôi rụng đầy bao nhiêu nụ cười ...
Có tối thật đều trong linh hồn nhỏ

(“Bay đi thầm lặng”)

Tại trang 43, ông viết:


Nếu có về chốn cũ của ḿnh, anh chỉ nh́n thấy sự hoang vu quạnh quẽ. Tất cả những ǵ là êm ấm, gần gũi ngày xưa, bây giờ chỉ c̣n là sự hờ hững, vắng không, tăm tối, khiến cho nỗi cô đơn trong anh càng đầy, càng nặng:

Nhà im đứng cửa cài đóng then
Vườn mưa xuống hành lang tối tăm
Về thôi nhé, cổng chào cuối sân
Hờ hững thế loài hoa trắng hồng

(“Vườn xưa”)

__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

3. Sau đây lại là một đoạn lắp ghép khác. Tại trang 70 của luận văn, Ban Mai viết:

Giống như Nguyễn Du đă nh́n thấy h́nh ảnh vô thường trong bóng mây:

Du du vân ảnh biến thần tịch
(Bóng mây lững thững biến đổi sớm chiều)

("La Phù Giang thuỷ các độc toạ)

Trong khi đó, Trịnh Công Sơn xem cuộc đời như ngọn gió hư vô:

Ôi phù du / từng tuổi xuân đă già
Một ngày kia đến bờ / Đời người như gió qua

("Phôi pha")

Đối với ông, cuộc đời phù du như cơn gió. Chúng ta dễ dàng bắt gặp những ca từ của ông nói về gió, những làn gió bay, những hơi gió thoảng. “Em ra đi như thoáng gió thầm...” ("Tạ ơn"). “Ḷng tôi có khi mơ hồ, tưởng ḿnh đang là cơn gió...” (“Lời thiên thu gọi"). Em hay ta, rồi cũng sẽ ra đi. Và cả trần gian này nữa. Tất cả rồi th́ cũng sẽ ch́m trôi. Đó là ám ảnh không nguôi của Trịnh Công Sơn.

Ch́m dưới cơn mưa một ngàn năm trước mây qua mây qua ...
Ch́m dưới cơn mưa một ngàn năm nữa mây qua mây qua ...
Bờ bến thiên thu nằm ch́m dưới cơn mưa

(“Ch́m dưới cơn mưa”)

Đoạn văn trên của Ban Mai được đan dệt khá công phu và, hầu hết, có thể t́m thấy ở trang 59 và 60 trong chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc:

Giống như Nguyễn Du đă nh́n thấy h́nh ảnh vô thường trong bóng mây:

Du du vân ảnh biến thần tịch
(Bóng mây lững thững biến đổi sớm chiều)

(La Phù Giang thuỷ các độc toạ),

Trịnh Công Sơn cũng nh́n thấy cái chớp mắt của vô thường kia trong bóng nắng. Bóng nắng trong câu kinh Phật:

Con mắt c̣n lại nh́n đời là không
Nh́n em hư vô nh́n em bóng nắng

Thiền sư Vạn Hạnh trong bài “Thị đệ tử” nói rơ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
(Thân như ánh chớp có rồi không)

Người con gái yêu dấu bên cạnh đời ta kia rồi một ngày nào đó cũng sẽ bay đi. Bay đi như một ánh chớp. Bay măi vào cuộc trăm năm hay vào những cơi bờ không c̣n không mất. H́nh ảnh cánh hoa trắng ngần kia có phải là h́nh ảnh của em không?

Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần
Đă ra đời đùa vui phút giây
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm ḷng ngh́n năm nhớ ai

(“Chuyện đoá quỳnh hương)

Và h́nh ảnh ngọn gió kia, chính là ta đó. Một ngọn gió hư vô:

Ôi phù du / từng tuổi xuân đă già
Một ngày kia đến bờ / Đời người như gió qua

(“Phôi pha”)

Em hay ta, rồi th́ cũng sẽ ra đi. Và cả trần gian này nữa. Tất cả rồi th́ cũng sẽ mịt mù. Tất cả rồi sẽ nằm ch́m dưới cơn mưa của trăm năm. Hay của ngàn năm. Trăm năm, cái dấu chấm bé cỏn con ấy cho một đời người. Và ngàn năm, so với thiên thu, th́ cũng chỉ là một cơn gió phù du:

Ch́m dưới cơn mưa một ngàn năm trước mây qua mây qua ...
Ch́m dưới cơn mưa một ngàn năm nữa mây qua mây qua ...
Bờ bến thiên thu nằm ch́m dưới cơn mưa

(“Ch́m dưới cơn mưa”)

Tất cả rồi sẽ ch́m trôi. Đó là nỗi ám ảnh không nguôi của Trịnh Công Sơn. Tính chất vô thường của đời sống, và của mọi sự trong nó, dẫn đến một thứ hư vô rợn ngợp bao phủ không gian tinh thần của một số ca khúc Trịnh Công Sơn. Nhưng, v́ là một con người luôn thiết tha gắn bó và yêu thương cuộc đời, như đă phân tích ở trên, nhận thức về hư vô này không đưa người nghệ sĩ đến một thứ hư vô luận có tính cách tàn phá và phủ nhận cuộc đời. Trái lại, chính sự thiết tha ấy đă làm nên một chiếc phao giúp cho Trịnh Công Sơn khỏi phải “ch́m dưới cơn mưa”. Ít ra, cho đến hết kỳ hạn của anh. Cho đến lúc “vết mực” kia bị xoá bỏ đi.

4. Ở trang 73 và 74 trong luận văn ḿnh, Ban Mai viết:

Trịnh Công Sơn nh́n ngắm thân phận ḿnh như một cái ǵ hư ảo, chóng tàn, chóng mất. Phần nào giống như Trần Thái Tông trong “Khoá hư lục” ngày xưa:

Thân như băng kiến hiệu
Mệnh tựa chúc đương phong
(Thân như băng gặp nắng trời
Mệnh như ngọn đuốc giữa gió)

Trần Thái Tông ví mệnh ḿnh như “ngọn đuốc”, Trịnh Công Sơn ví đời ḿnh như “đốm lửa”. Chúng ta thấy, cái nh́n của Trịnh Công Sơn về thân phận ḿnh có chút ǵ mong manh, dễ tàn, dễ mất hơn:

Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya

("Đêm thấy ta là thác đổ")

ánh lửa ấy, rồi cũng như vệt nắng chiều mong manh hấp hối kia, sẽ tắt khi đêm về.

Ta có thể nhận ra là gần như nguyên văn đoạn này được sao chép lại từ chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc, trang 43:

Trịnh Công Sơn nh́n ngắm thân phận ḿnh như một cái ǵ hư ảo, chóng tàn, chóng mất. Phần nào giống như Trần Thái Tông trong "Khoá hư lục" ngày xưa:

Thân như băng kiến hiệu
Mệnh tựa chúc đương phong
(Thân như băng gặp nắng trời
Mệnh như ngọn đuốc giữa gió)

Dù sao, cái nh́n của anh về thân phận ḿnh có chút ǵ mong manh, dễ tàn, dễ mất hơn:

Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya

("Đêm thấy ta là thác đổ")

Ánh lửa ấy, rồi cũng như vệt nắng chiều mong manh hấp hối kia, sẽ đậy lại một ngày qua.

5. Trong phần “Trịnh Công Sơn, người ca thơ”, trang 100 trên Văn Học, Ban Mai viết:

Không ai nghe nhạc Trịnh Công Sơn mà lại không thấy những nét kỳ ảo trong ngôn ngữ của người nhạc sĩ. Những nét kỳ ảo trong thế giới của ông đă khiến cho cái thế giới ấy trở nên đẹp đẽ, lung linh nhiều mầu sắc, có khi nḥe nhạt thấp thoáng những nét nghệ thuật hơn.

Đoạn này có thể nói là sao chép nguyên văn một đoạn văn trong chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc, chương năm, phần đầu của “Nghệ thuật ngôn ngữ”, trang 131:

Không ai nghe nhạc Trịnh Công Sơn mà lại không thấy những nét kỳ ảo trong ngôn ngữ của người nhạc sĩ. Những nét kỳ ảo trong thế giới của anh đă khiến cho cái thế giới ấy trở nên, có khi, đẹp đẽ, lung linh nhiều mầu sắc, có khi, nḥe nhạt thấp thoáng những nét nghệ thuật hơn.


*


Tất cả những phần vừa được trích dẫn để so sánh là những phần, trong luận văn của ḿnh, Ban Mai không hề có ghi một chú thích nào cho thấy là ḿnh trích văn của nhà phê b́nh trong chuyên luận của ông. Độc giả không có dịp đọc trước chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc sẽ tin rằng đó là suy nghĩ và chữ nghĩa của Ban Mai. Đây có thể là một sự “nhập tâm”, hoặc một sự vô ư lớn, gây tai hại khá trầm trọng cho luận văn của Ban Mai. Nó cũng có thể phản ánh một khiếm khuyết của nền giáo dục Việt Nam trong khâu huấn luyện viết luận văn/luận án cấp hậu đại học.

Ngoài những đoạn vừa được phân tích trên, luận văn của Ban Mai c̣n những đoạn khác có thể cần được góp ư, nhưng trong giới hạn t́m hiểu và nghiên cứu của người viết bài này, tôi không muốn đi sâu vào việc phân tích thêm nữa. Bởi, như thế, có lẽ tương đối cũng đă đủ cho mục đích của bài viết này. Qua những điều vừa tŕnh bày, tôi thấy ḿnh có một vài cảm xúc và suy nghĩ sau, để kết thúc bài viết:

Thứ nhất, tôi tiếc v́ ḿnh đă phải viết ra bài này. Tôi yêu những công tŕnh nghiên cứu có chất lượng và có chiều sâu về văn học và văn hoá Việt Nam. Đề tài chọn lựa của tác giả Ban Mai là một đề tài có thể đưa đến một kết quả như thế, nếu ta biết sử dụng những thao tác đúng cách về mặt kỹ thuật cộng với một ư thức rơ ràng về vấn đề đạo đức nghề nghiệp khi cầm bút. Chọn lựa một đề tài như thế để làm luận văn bảo vệ bằng thạc sĩ (văn học) của ḿnh là một chọn lựa đẹp và đáng quư. Tôi tiếc, nhưng tôi vẫn phải viết bài này. V́ những điều tôi phát hiện ra như đă tŕnh bày có thể mang chứa trong nó những ảnh hưởng rất tiêu cực đối với công tŕnh của tác giả Ban Mai, nói riêng, cũng như đối với cung cách và phong thái làm việc của những thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam sau này, nói chung.

Thứ hai, riêng cá nhân ḿnh, tôi không nghĩ Ban Mai là một tác giả thiếu năng lực. Biết lợi dụng sức mạnh của công nghệ thông tin, sử dụng được những nguồn tài liệu rất phong phú trên hệ thống liên mạng toàn cầu với biết bao bài vở và thông tin hữu ích thuộc mọi đề tài, biết kết nối những thông tin đó và diễn giải chúng theo một tŕnh tự hợp lư, mạch lạc và bám sát vào đề tài ḿnh đă chọn lựa, đ̣i hỏi một quá tŕnh đào luyện và học hỏi nhất định. Tác giả Ban Mai là một người đă vượt qua được cái mặt bằng nhận thức thông thường (xét theo một nghĩa nào đó) để vươn lên mức chuyên môn. Nhận thức được điều đó, mặc dù phải viết bài này, cá nhân tôi, tôi tránh không đi vào thái độ “xổ toẹt” mà người ta dễ có thể có khi đối diện với một trường hợp tương tự. Có thật nhiều những trường hợp như thế đă và đang xảy ra tại Việt Nam, từ cấp độ của một học sinh cho đến cấp độ của một tiến sĩ [5] . Tôi không muốn quy trách hoàn toàn cho hệ thống giáo dục tại Việt Nam, cho dù cái hệ thống ấy thật sự vẫn c̣n quá nhiều điều cần phải sửa đổi. Theo dơi những bài viết của những vị thức giả có quan tâm tới phẩm chất giáo dục của ta trên nhiều trang báo (in và điện toán) của cả trong lẫn ngoài nước, ta thấy được rất rơ những điều ấy. Điều tôi muốn nói ở đây là không chỉ Việt Nam là quốc gia duy nhất đang phải đối đầu với vấn đề nan giải liên hệ đến đạo đức và kỹ thuật trong thao tác khoa học gắn bó với quá tŕnh viết luận văn cấp Thạc sĩ và Tiến sĩ. Mới đây, trên bài báo “Student Plagiarism Stirs Controversy at Ohio University”, đăng trên tờ Wall Street Journal ngày 15 tháng 8, 2006, tác giả bài báo là Robert Tomsho đă cho biết là khủng hoảng về việc đạo văn trong giới sinh viên ngoại quốc theo học tại Ohio University đang gây sóng gió tại đây. V́ những lư do khác nhau, nhiều sinh viên Trung Hoa, Ấn Độ, Sri Lanka, Saudi Arabia, Thái Lan, Nam Hàn (và cũng có cả Hoa Kỳ nữa) đă thực hiện những hành vi không đúng này. Đại học Ohio đang đ̣i những sinh viên bị cáo buộc đạo văn phải sửa đổi lại luận văn bảo vệ bằng cấp của ḿnh; nếu không, nhà trường sẽ huỷ bỏ bằng cấp đă trao, cho dù người sinh viên bị cáo buộc ra trường đă lâu. Có những sinh viên đă ra trường 5, 10, thậm chí 20 năm rồi nay mới bị phát hiện. Các giáo sư đỡ đầu hoặc chấm luận án đang gặp khó khăn; một số từ chức, một số đang bị cho nghỉ việc. Kể ra như thế để thấy rằng không nên chỉ v́ vấn đề này mà xem Việt Nam là nước duy nhất “tụt hậu” về mặt phẩm chất giáo dục. Nhưng cũng không nên có thái độ “người sao ta vậy”, không cần sửa đổi làm chi. Trung Hoa và Ấn Độ là hai nước đang phải đối đầu một cách rất khó khăn với tệ nạn này. Dù sao, họ đang có những nỗ lực cần thiết để sửa sai. Việt Nam ta cũng cần phải có một thái độ tương tự.

Cuối cùng, chuyên luận Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc mặc dù chưa chính thức phổ biến trong nước, nhưng, theo chỗ tôi biết, đă có mặt ở Việt Nam, ít nhất trong dạng photocopy. Ngoài ra, như nhiều người đă biết, khoảng một nửa chuyên luận, được đăng lần đầu trên tuyển tập đặc biệt về Trịnh Công Sơn của tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ, đă được phổ biến trên một số mạng điện toán toàn cầu. Việc tác giả Ban Mai (vô ư hay cố ư) sao chép lại nguyên văn nhiều đoạn văn (mà không có những ghi chú chính đáng và cần thiết về thẩm quyền tác giả) từ chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc, một chuyên luận văn học mà ngôn ngữ mang đậm chất văn chương là một việc làm rất thiếu ư thức và không khôn ngoan. Hầu hết các sinh viên “có vấn đề” như vừa được tŕnh bày ở trên tại đại học Ohio, Hoa Kỳ, là những sinh viên ngành kỹ sư. Các phần sao chép của họ là các phần với ngôn ngữ mang nặng tính khoa học và khô khan của các lư thuyết. Sự phát hiện, như thế, có thể khó nhận ra hơn. Nhưng sao chép các đoạn văn trong một tác phẩm c̣n khá mới, được phổ biến rộng răi trên nhiều kênh thông tin khác nhau, của một tác giả được sự theo dơi của nhiều người cả trong lẫn ngoài nước, là một việc làm thật khó hiểu! Nói như vậy không có nghĩa là người ta có quyền đi sao chép những tài liệu khó phát hiện hơn. Tôi chỉ muốn nói là tôi khó t́m được cách giải thích về trường hợp này. Dù sao, tôi cũng muốn nói thêm rằng luận văn của Ban Mai có những đóng góp nhất định ở một số mặt. Nét sáng tạo trong luận văn của tác giả Ban Mai có thể chưa nhiều, nhưng những cố gắng tổng hợp và hệ thống hoá là có. Bỏ qua những sai sót trầm trọng kia—những sai sót mà riêng cá nhân ḿnh tôi vẫn muốn nghĩ là mang nhiều dấu vết của sự thiếu kinh nghiệm và thiếu hướng dẫn trong việc viết luận văn/luận án, cũng như là do sự vội vă, hơn là do sự thiếu vắng một “đạo đức nghề nghiệp”—luận văn của Ban Mai vẫn có thể mang lại cho người đọc những hiểu biết hữu ích về đề tài mà tác giả đă chọn lựa.

Bài viết này chấm dứt ở đây với những cảm xúc buồn bă và xót xa. Dù sao, tôi không mất hy vọng vào phẩm chất giáo dục của Việt Nam. Tất cả những ai vấp phạm, v́ bất cứ hoàn cảnh hay bất cứ lư do ǵ, trong những vị trí riêng của ḿnh, đều có thể sửa đổi. Chúng ta tự sửa đổi và dạy cho những thế hệ sau những phong cách làm việc chính đáng và khoa học hơn. Được thế, tất cả chúng ta vẫn có thể tin tưởng vào sự vươn lên của những giá trị nhân văn trong văn hoá của người Việt.

23 tháng 8.2006

Vu Dong Ngoc




[1]Xem Nguyễn Mộng Giác, “Tṛ chuyện với sinh viên”, đăng trên talawas ngày 14 tháng 3. 2006.
[2]Nếu không kể luận văn cao học về nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn của Yoshii Michiko. Chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc nghiên cứu về mặt ngôn ngữ và đào sâu vào vùng vô thức của Trịnh Công Sơn nhiều hơn.
[3]Xem phỏng vấn Bùi Vĩnh Phúc của Phạm Văn Kỳ Thanh trên talawas, “Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật”, đăng làm hai phần, ngày 10 tháng 12, 2005.
[4]Cuốn Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật do nhà Văn Mới (Hoa Kỳ) xuất bản vào khoảng giữa năm 2005. Trước đó, theo tác giả Bùi Vĩnh Phúc trong phần giới thiệu chuyên luận này, khoảng nửa cuốn sách, với sự sắp xếp nhiều phân đoạn của chính tác giả, đă được giới thiệu trên tuyển tập đặc biệt về Trịnh Công Sơn, cũng do tạp chí Văn Học xuất bản, vào tháng 10 & 11, năm 2001 (Trịnh Công Sơn - T́nh yêu, quê hương, thân phận – ấn bản đặc biệt). Phần nghiên cứu này, theo nhà phê b́nh Bùi Vĩnh Phúc trong lời mở sách của ḿnh, sau đó đă được một số websites, có thể do sự quư mến nội dung của nó, tự ư đánh máy và cho phổ biến. Cũng theo tác giả, một tuyển tập các bài viết công phu về Trịnh Công Sơn ở trong nước, thu thập nhiều bài viết từ nhiều nguồn tài liệu cả trong lẫn ngoài nước, dày trên 650 trang, đẹp và trang trọng (mà trong sự t́m hiểu và sưu tầm riêng, tôi được biết là quyển Một cơi Trịnh Công Sơn), cũng đă tự ư đăng gần như trọn vẹn lại phần tài liệu của Bùi Vĩnh Phúc đă được giới thiệu trên Văn Học, với lời xin lỗi chung các tác giả ngoài Việt Nam là v́ trở ngại địa lư nên nhóm chủ trương đă không thể chính thức xin phép các tác giả này trong việc sử dụng bài của họ.
[5]Xem tin về Việt Nam: thí sinh thi văn vào đại học được điểm 10, “Bài văn điểm 10 là bản sao” trên http://www.bbc.co.uk/vietnamese ngày 11 tháng 8, 2006 và bài “Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương “đạo văn” như thế nào?” của Nguyễn Hoà trên http://www.viet-studies.org ngày 15 tháng 8, 2006.


-- Edited by huule at 17:00, 2006-09-21

__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

Ban Mai
Thư gửi ông Vũ Đông Ngọc
 

Kính thưa ông,

1. Cảm giác đầu tiên của tôi khi đọc bài viết của ông là nỗi đau xót vô cùng.

Nếu với tư cách là người viết ông có “những cảm xúc buồn bă và xót xa”, th́ tôi với tư cách người được ông nhắc đến càng thấy xót xa và buồn bă đến tận cùng.

Cảm ơn ông rất nhiều khi có những lời lẽ đúng mực khi phê b́nh, và đem tôi làm minh chứng cho trường hợp về đạo đức trong nghiên cứu khoa học. Điều đó chứng tỏ ông là người rất ư thức và quan tâm đến t́nh h́nh giáo dục của nước nhà.

Những điều ông viết phần nào chính xác và đúng thực tế giáo dục Việt Nam.

Cũng như ông và bao người khác, tôi cũng rất hiểu thực trạng Việt Nam và những ái ngại khi có ai đó xưng ḿnh là thạc sĩ hay tiến sĩ. V́ những ánh nh́n nghi ngại?

2. Tuy nhiên, không phải v́ vậy mà giới trí thức trong nước không có những người tự trọng biết làm việc nghiêm túc. Là người Việt Nam cho dù ở trong nước hay nước ngoài, tôi nghĩ rằng chỉ số IQ của người Việt là như nhau. Hơn nhau chăng là môi trường và điều kiện làm việc. Chính điều đó tạo ra một khoảng cách rất xa…

Xin đừng nói đến điểm tối đa! Tôi hiểu điều đó cũng là tương đối trong một môi trường cụ thể, trên một b́nh diện cụ thể. Việc đánh giá, so sánh một đề tài, một tác phẩm trên một b́nh diện tri thức với điều kiện khác nhau, môi trường khác nhau là điều rất tương đối. Có khi ở hội đồng này, ngay chính địa phương này, trong những con người này là đánh giá như vậy. Nhưng cũng con người ấy, đến một nơi khác lại là con số không… đó là điều b́nh thường trong cuộc sống. Đánh giá văn chương lại càng nhiêu khê.

Hiểu rơ những điều “nóng bỏng” mà xă hội đang quan tâm, v́ vậy khi làm luận văn về văn học Việt Nam tôi không muốn đi vào vết chân cũ nên đă chọn một đề tài hoàn toàn mới mà ở Việt Nam ít nhất là trong các luận văn Cao học chưa từng nghiên cứu. Dùng ca từ Trịnh Công Sơn để nghiên cứu dưới góc nh́n văn học trong ḍng văn học Việt Nam. Và để thực hiện nhiệm vụ chính đó, luận văn sẽ mở rộng trường nghiên cứu tới một số đối tượng thơ ca, ca từ khác nhằm tạo điều kiện so sánh trong khi khám phá giá trị độc đáo của ca từ Trịnh Công Sơn. (Cụ thể tôi so sánh với Thơ Thiền đời Lư – Trần; ḍng Thơ Mới như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Huy Cận…; ca từ của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Lê Thương, Phạm Duy…).

3. Có lẽ chính tôi cũng không ngờ từ việc ḿnh tự chọn đề tài Trịnh Công Sơn để nghiên cứu, đến khi t́m kiếm tư liệu, cho đến lúc bảo vệ và công bố đề tài, tôi đă trải qua nhiều khổ sở, nghi ngại, cấm đoán. Thậm chí đến lúc bảo vệ bạn bè c̣n nhắc nhở có lẽ sẽ không xong v́ tôi đă đem ca từ nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn vào bài viết. Đây là vấn đề tế nhị mà nhà nước hiện nay vẫn chưa cho phép, không được đem nghiên cứu trong trường học chính thống. Liệu những suy nghĩ “nội chiến” của Trịnh Công Sơn mà tôi đồng cảm có được hội đồng thông qua? Những người không chuyên ngành th́ lo lắng: Văn học Việt Nam hết người rồi hay sao mà phải đem ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào nghiên cứu, ông ta là nhạc sĩ, có phải là nhà văn nhà thơ đang được giảng dạy trong trường học đâu? Những người bạn cùng học th́ bảo tôi điên khi phải tự bỏ tiền ra truy cập tài liệu trên internet cả mấy năm trời, rồi lại đi Huế gặp ông Bửu Ư và Hoàng Phủ Ngọc Tường xác minh tư liệu và nhờ cung cấp kiến thức, ra Hà Nội gặp GS. Dương Viết Á dạy tại Viện Âm nhạc Việt Nam để học hỏi về lư thuyết ca từ Việt Nam. Vào Sài G̣n gặp gia đ́nh ông Trịnh Công Sơn để thẩm định tư liệu cuộc đời, trước khi bảo vệ... Việc ǵ phải tốn công sức tiền bạc nhiều như vậy? Với đồng lương một công chức khiêm tốn như tôi?

Tôi đă quá mệt mỏi.

Nói những điều này để ông hiểu rằng, tôi làm đề tài về Trịnh Công Sơn từ niềm say mê của tôi từ khi tôi c̣n nhỏ. Và làm với tấm ḷng lương thiện.

Người ta nói: Ca từ của Trịnh Công Sơn là tự t́nh khúc, có nghĩa là tự hát cho ḿnh nghe. Ai cũng đều thấy có ḿnh trong đó. V́ vậy, việc có nhiều người cùng đồng cảm với nội dung ca từ của Trịnh Công Sơn là điều b́nh thường. Trong một mớ tài liệu hỗn độn từ nhiều nguồn thu thập được, đôi lúc đọc những bài nghiên cứu tôi tự hỏi sao cảm xúc của họ giống ta quá, y chang vậy?

Tôi đặc biệt yêu thích những bài viết của các ông Bùi Vĩnh Phúc, Trần Hữu Thục, Lê Hữu, Đặng Tiến, Bửu Ư, Hoàng Phủ Ngọc Tường…, kể nhiều người “hải ngoại” không dễ bị bài xích “chuộng ngoại”; nhưng không, v́ họ viết rất hay và tinh tế (tôi may mắn học được ở họ rất nhiều). Có lẽ v́ họ cùng thời với Trịnh Công Sơn, đă từng cùng Trịnh Công Sơn trải qua một giai đoạn đầy biến động của đất nước nên cảm rất sâu tuy nhiều quan điểm trái ngược. Tôi cảm nhận được điều đó và hiểu họ.

4. Trong quá tŕnh làm việc, giáo sư hướng dẫn cho tôi luôn nhắc nhở phải cẩn thận ghi chú rơ ràng những tài liệu tham khảo v́ khi hiệu đính dễ nhầm lẫn và quên. V́ trong thao tác viết bản thảo, tôi phải sửa đi sửa lại hàng chục lần. Những điều ông Vũ Đông Ngọc chỉ ra phần nào là chính xác và đúng như vậy, tôi đă ghi chú sai sót trong quá tŕnh làm việc. Đó là lỗi ở phương pháp, tôi không hề cố ư. Trong quá tŕnh sắp xếp ư tưởng của ḿnh để kết nối với các nguồn dẫn liệu theo một bố cục nhất định, có lúc tôi đă sơ suất chưa ghi hiệu đính. Qua nhiều lần chỉnh sửa, đă dẫn đến văn bản như ông thấy. Vấn đề đồng cảm và nhập tâm ngôn ngữ trong bề bộn những tư liệu, có thể đă làm cho tôi mất khả năng nhận thấy thiếu sót này (nói theo thuật ngữ là bị băo ḥa). Tôi hiểu tính nghiêm trọng của vấn đề nếu bị hiểu lầm. Nếu các bạn đă đọc bài viết, dễ dàng nhận thấy tôi trích dẫn tư liệu từ nhiều nguồn, nhiều người và có ghi tên tác giả hoặc ghi chú trong tài liệu tham khảo rất nhiều. Thật ra, là một người thường xuyên lên mạng để lấy thông tin làm việc, tôi hiểu rằng trong thế giới phẳng về thông tin ngày nay, việc công bố tác phẩm sẽ được sự soi rọi của nhiều người và không ǵ che dấu được. Đặc biệt, tôi thừa hiểu ông Bùi Vĩnh Phúc là nhà lư luận phê b́nh về Trịnh Công Sơn rất nổi tiếng.

Bài viết tôi đăng trên tạp chí Văn Học là bài viết tổng hợp từ luận văn, đó không phải là luận văn chính thức. V́ bố cục hoàn toàn khác nhau:

Bố cục bài viết đăng trên tạp chí Văn Học.

THÂN PHẬN CON NGƯỜI VÀ T̀NH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

1. Cuộc đời và sự nghiệp
2. Tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn
3. Thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
4. Trịnh Công Sơn, người ca thơ

Bố cục luận văn thạc sĩ:

THÂN PHẬN CON NGƯỜI VÀ T̀NH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

A. Mở đầu


1. Lư do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc luận văn

B. Nội dung

Chương I: Cuộc đời và sự nghiệp Trịnh Công Sơn
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp
1.2 Tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn

Chương II: Thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn

Phần 1. Thân phận con người trong ca từ Trịnh Công Sơn
1.1 Con người bản thể trước sự sống và cái chết, ám ảnh về nỗi tàn phai
1.2 Thân phận con người trong nỗi buồn và cô đơn
1.3 Thân phận con người trong chiến tranh

Phần 2. T́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
2.1 Quan niệm t́nh yêu và những biểu hiện t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
2.2 Người nữ và những khúc ru trong ca từ Trịnh Công Sơn
2.3 T́nh người trong ca từ Trịnh Công Sơn.

Chương III: Nghệ thuật ngôn từ về thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn

Phần 1. Lư thuyết về ca từ
1.1 Ca từ là ǵ?
1.2 Mối quan hệ giữa ca từ với thơ ca và âm nhạc

Phần 2: Nghệ thuật ngôn từ về thân phận con người và t́nh yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
2.1 Ngôn ngữ ca từ là ngôn ngữ thơ của nhạc
2.2 Ngôn ngữ ca từ chịu sự chi phối của âm nhạc: thường sử dụng phương pháp điệp từ (láy), điệp câu, điệp vần…
2.3 Ngôn ngữ được “lạ hóa”, kết hợp một cách độc đáo, mới lạ, mang nhiều ư nghĩa ẩn dụ
2.4 Ngôn ngữ thường mang tính nhị nguyên, tính triết học

C. Kết luận

D. Tài liệu tham khảo

Phần Phụ lục

Phần tài liệu tham khảo trong bài viết đăng báo Văn Học gồm 55 mục, trong đó tôi có ghi rơ tài liệu về ông Bùi Vĩnh Phúc và bài phỏng vấn của Phạm Văn Kỳ Thanh (mục số 3 và mục số 31).

(3) Bùi Vĩnh Phúc. 2005. “Trịnh Công Sơn ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật”, nguồn http://www.tcs-home.org
(31) Phạm Văn Kỳ Thanh. 2005. Phỏng vấn Bùi Vĩnh Phúc, “Trịnh Công Sơn ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật”, nguồn: in trên talawas tháng 12/2005

Trong bài viết tôi có ghi chú 5 lần về ư kiến của ông Bùi Vĩnh Phúc khi nhận định các ca từ của Trịnh Công Sơn:

1. Trong bài “Nh́n những mùa thu đi”, Trịnh Công Sơn viết:


Nh́n những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song, nghe tên ḿnh vào quên lăng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng (…)

Quên lăng, chết, rất ngắn, nhạt phai
. Đó là những nhận thức của Trịnh Công Sơn về bước đi hững hờ mà gây nhiều xót xa, đau đớn của thời gian, đối với kiếp người (3).

2. Chợt một chiều tóc trắng như vôi. Tiếng kêu nghe thật thảng thốt và xót xa. Cái khoảng thời gian chiều, rồi tối, rồi đêm ấy h́nh như là khoảng thời gian đem lại cho Trịnh Công Sơn nhiều ám ảnh nhất trong những suy nghĩ về thời gian của ông. Trong hướng nh́n thời gian của ông, không phải không có những ban mai, những sương sớm và ánh nắng. Nhưng khảo sát kỹ, ta vẫn thấy Trịnh Công Sơn có nhiều gắn bó với những khoảng thời gian chiều, tối, đêm, là những khoảng thời gian bắt đầu cho sự muộn màng của ngày để đi dần đến sự tàn tạ và chấm dứt của nó (3).

3. Bàn tay chăn gió mưa sang. Gió mưa ở đây được xem như bầy cừu hay một bầy dê nhỏ đáng yêu mà bàn tay ai đă chăn dắt sang đây (3).

4. Bùi Vĩnh Phúc nhận định: Người ta thường cho rằng những lời ca của ông là thơ. Th́ đúng như vậy. Chúng là những lời thơ thả bay cho gió cuốn. Chúng là những h́nh ảnh, những biểu tượng bất chợt. Như những h́nh ảnh bất chợt hiện ra lạ lùng, kỳ bí và đầy hư ảo trong những giấc mơ của ta. …………….. (31).

5. So với suy nghĩ của tôi, nhà lư luận phê b́nh Bùi Vĩnh Phúc cũng có cái nh́n tương tự “… nếu hiểu ḍng nhạc như thế, hành âm như thế, ca từ của Trịnh Công Sơn có bắt được vào cái thần thái, cái phong khí của ḍng nhạc hay không”. Theo ông Bùi Vĩnh Phúc th́ “Trịnh Công Sơn đă t́m được những ḍng nhạc hoặc lối hành âm thích hợp với ca từ của ông, thường là lối kể chuyện, những điệu ballad” (31).

Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông Vũ Đông Ngọc không nói rơ những lần tôi có hiệu đính khi trích dẫn tài liệu những lời b́nh của tác giả Bùi Vĩnh Phúc? Mà chỉ tỉ mỉ t́m ra những sai sót để minh chứng cho sản phẩm giáo dục Việt Nam hiện nay? Và không ngần ngại đưa ngay lư lịch của tôi lên mạng để công bố. Tôi hiểu ẩn ư của ông.

Tôi chưa bao giờ có ư nghĩ lấy văn của người khác làm của riêng ḿnh. Mặc dù tôi rất ảnh hưởng văn của ông Bùi Vĩnh Phúc. Mặc nhiên, tôi tự biết ḿnh chỉ là học tṛ của ông ấy thôi, luận văn thạc sĩ chỉ là một bài tập lớn để đánh giá về khả năng học viên tự nghiên cứu - tôi chỉ là người đang tập nghiên cứu.

V́ vậy việc đ̣i hỏi phải đưa ra những điều sáng tạo mới lớn lao là điều tốt nhưng là quá sức của tôi, tôi đă nói rơ ràng trong Mở đầu luận văn: Phần Lịch sử vấn đề và Giới hạn đề tài:

“Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công tŕnh đi trước, luận văn này hệ thống lại, đào sâu thêm, mở rộng hơn nữa, nhằm góp phần khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật ca từ Trịnh Công Sơn trong ḍng văn hóa Việt Nam, dưới góc nh́n văn học.”

Xin trích một phần Mở đầu của luận văn:

1. Lịch sử vấn đề
1.1. Về thư mục bài hát

Người ta thường ước lượng Trịnh Công Sơn đă sáng tác hơn 400 ca khúc, có người đă tăng số ấy lên 600, 800 bài, thậm chí có người cho rằng 1000 bài, nhưng không ai đưa ra chứng cớ ǵ cụ thể, không biết dựa vào dữ kiện nào để phỏng lượng như vậy. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời, cũng không biết ḿnh đă viết bao nhiêu ca khúc v́ thời chiến tranh sống cuộc đời trốn tránh, lang bạt, ông không có điều kiện giữ ǵn, những sáng tác ấy thất lạc khắp nơi.

Vào năm 1991, khi Trịnh Công Sơn c̣n sống, cô Yoshii Michiko một sinh viên người Nhật làm luận văn cao học về nhạc phản chiến của ông ở Paris, sưu tầm được 196 bài hát, trên cơ sở tài liệu Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ tác giả hoặc của các ca sĩ [18].

10 năm sau, khi TCS qua đời năm 2001, những bạn bè của ông ở trong nước và ngoài nước cố công sưu tầm bài hát của ông qua nhiều nguồn. Hiện nay trên mạng “Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn tại Pháp”, trong thư mục bài hát Trịnh Công Sơn, ông Phạm Văn Đỉnh đă kỳ công sưu tầm được 291 bài hát, có chú thích năm tháng rơ ràng chính xác. Có lẽ đó là thư mục bài hát t́m được nhiều nhất cho đến thời điểm hiện nay [50].

Khi sưu tầm ca từ của Trịnh Công Sơn để làm luận văn cao học, bước đầu chúng tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn như vậy. Tuy nhiên, qua thời gian dài sưu tầm công phu, cẩn trọng với những cứ liệu khoa học có được chúng tôi nhận định rằng Trịnh Công Sơn sáng tác khoảng trên 300 bài hát.

1.2. Về bài viết nghiên cứu hiện tượng Trịnh Công Sơn

Âm nhạc của Trịnh Công Sơn, ngay từ khi mới ra đời và xuất hiện trước công chúng đă gây được một tiếng vang và nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Từ đó đă có những bài viết về nhạc của ông. Chúng tôi tạm phân ra có hai thời kỳ như sau: Thời kỳ ông c̣n sống và sau khi ông mất.

Thời kỳ Trịnh Công Sơn c̣n sống: Qua tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được, trước năm 1975 có vài tờ báo viết về hiện tượng nhạc Trịnh Công Sơn với những nhận định chung chung về thiên tài âm nhạc của ông. Gồm các bài: “Phong trào da vàng ca” của Lê Trương, “Trịnh Công Sơn” của Tạ Tỵ, “Huyền thoại về con người” của Tô Thùy Yên. Trong các bài viết đó, nhận định của Tạ Tỵ rất đáng chú ư. Ông cho rằng: “Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho ḿnh, cho thế hệ ḿnh, những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn. Trong ṿng 4-5 năm trở lại đây, tiếng nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly đă đi hẳn vào đời sống tâm linh của những người trẻ tuổi bằng niềm đau xót và phẫn nộ xen kẽ trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi v́ t́nh h́nh quân sự và chính trị” [30]. Nh́n chung các bài viết trên cho ta cái nh́n toàn cảnh về âm nhạc Trịnh Công Sơn trong bối cảnh xă hội chiến tranh loạn lạc lúc bấy giờ, không có bài viết nào nghiên cứu sâu về ca từ Trịnh Công Sơn.

Đến năm 1991, khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn c̣n sống, có một luận văn cao học viết về nhạc của ông, do cô Yoshii Michiko người Nhật nghiên cứu với đề tài “Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn”, viết bằng tiếng Pháp, bảo vệ tại Đại học Paris 7. Luận văn này giới thiệu những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, nhằm chứng minh đó là những kiệt tác về âm nhạc, từ đó giúp người nghe nhạc hiểu tốt hơn về những bài hát phản chiến của ông [18].

Tóm lại, trong khoảng thời gian 62 năm khi ông c̣n sống, việc nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn rất hạn chế, do nhiều nguyên nhân: trước năm 1975 do chiến tranh loạn lạc, sau năm 1975 trong quan điểm chính thống có nhiều luồng tư tưởng c̣n cực đoan, phiến diện. Đây đó, trên những tờ báo trong nước và nước ngoài chỉ giới thiệu về hiện tượng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong âm nhạc và trong cuộc đời, chưa đi sâu khai thác những đóng góp của ông về nghệ thuật ca từ.

Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời ngày 01/04/2001, người ta mới bắt đầu nghiên cứu nhiều về cuộc đời và những sáng tác của ông.



__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

Tại Việt Nam

Có nhiều tác phẩm rất công phu của Nhiều tác giả lần lượt ra đời, tập họp và in lại những bài phê b́nh của các tác giả trong và ngoài nước (lấy lại trên các trang web hải ngoại và được biên tập lại) gồm những bài phỏng vấn, những bài nghiên cứu, cảm nghĩ của bạn bè, và một số bài viết của Trịnh Công Sơn. Phần phụ lục cung cấp nhiều h́nh ảnh cuộc đời ông và giới thiệu một số ca từ của Trịnh Công Sơn.

Sau 01/04/2001, cuốn sách ra đời đầu tiên là cuốn của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo sưu tầm và biên soạn (2001): Trịnh Công Sơn, một người thơ ca một cơi đi về. Sau đó tái bản với tựa đề Một cơi Trịnh Công Sơn (2004) in ấn đàng hoàng hơn và có một số sửa chữa.

Tiếp theo, lần lượt được phát hành các cuốn Trịnh Công Sơn, Cát bụi lộng lẫy NXB Thuận Hóa và Tạp chí Sông Hương (208 tr.), Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ, NXB Trẻ (416 tr.), Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người, NXB Phụ Nữ (208 tr.) và Trịnh Công Sơn, cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng, NXB Văn nghệ TPHCM (286 tr.).

Ngoài ra c̣n có các tác phẩm cá nhân của Bửu Ư, giảng viên tiếng Pháp Trường Đại học Sư phạm Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân.

Ở đây, chúng tôi xin điểm qua 3 tập tiêu biểu của Nhiều tác giả:

Thứ nhất là tập Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người do NXB Phụ Nữ ấn hành năm 2003, dày 208 trang. Cuốn sách nhỏ, khiêm tốn, in thoáng, chữ rơ, tụ họp một số bài viết thiên về người mẹ, người phụ nữ. Trong đó có thư gửi Ngô Kha khá dài của Trịnh Công Sơn, đề năm 1974 khi nhà thơ Ngô Kha bị nhốt khám lần thứ ba. Văn bản này rất đáng ngờ, v́ văn phong rất hiện thực, nội dung lại rất dấn thân, lời lẽ cổ vũ đấu tranh liên tục, không chùn… Nổi bật trong tập sách này có bài “Kẻ du ca về t́nh yêu, quê hương và thân phận” của Bửu Ư, với những nhận định sắc sảo: “T́nh yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm t́nh. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ… Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ư chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường t́nh… Quê hương nổi bật hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo c̣n là hậu quả của chiến tranh. Và chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tṛn, ở trong ḷng người, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn, ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lư… Sự sống bước giật lùi mỗi phút giây như h́nh ảnh cuốn chiếu. Trịnh Công Sơn quả quyết “Chỉ có ta trong một đời” và dứt khoát chọn lựa: Sống, sống hết ḿnh. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền… Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó phân ly: sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau” [40; 129-133].

Tiếp theo là tập Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ, của NXB Trẻ, 2003 dày 416 trang. B́a cứng, có chân dung tự họa của Trịnh Công Sơn, năm 1999, sau một cơn bịnh “thập tử nhất sinh”. Ấn phẩm này tŕnh bày đẹp, in ấn trang nhă, tụ họp 26 bài viết của Trịnh Công Sơn, 28 bài viết về Trịnh Công Sơn trước ngày 1/4/2001, 87 bài của bạn bè sau 1/4/2001 và một số h́nh ảnh tư liệu về Trịnh Công Sơn. Nổi bật có bài “Hành tinh yêu thương của Hoàng tử bé” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhận định về t́nh ca, nhà văn họ Hoàng cho rằng: “… Với Sơn, Người T́nh là người đối thoại cần thiết, và v́ thế trong t́nh ca Trịnh Công Sơn, người nói không là ‘Anh’ mà là ‘Tôi và Em’. Hai tiếng Anh-Em ngọt ngào đó h́nh như không thích hợp với những điều cay đắng. Không thích hợp với nhiều thứ gai góc cuộc đời, như thân phận, cái chết và nỗi tuyệt vọng: “Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi ḷng tuyệt vọng” Đến đây th́ mọi sự đă ngă ngũ, rằng t́nh ca Trịnh Công Sơn chính là siêu h́nh học, và v́ thế không bao giờ cũ” [39; 128].

Nhạc sĩ Phó Đức Phương, trong bài “Khát khao hướng về cội nguồn, về cái đẹp” cho rằng: “Âm nhạc của Trịnh Công Sơn đă gắn bó thật sự với cuộc sống xung quanh anh và mang một ư nghĩa phản ánh rất điển h́nh, khi mà đất nước, do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, c̣n bị chia cắt. Ở thời kỳ đó, nhiều ca khúc của anh bộc lộ nỗi thao thức bồn chồn của người dân sống trong một điều kiện éo le của vận mệnh cá nhân cũng như vận mệnh dân tộc. Nỗi khắc khoải, khát khao hướng về cội nguồn, hướng về quê hương, sự mong mỏi ngày thống nhất, ngày đoàn tụ với t́nh yêu thương đùm bọc của một dân tộc có quá nhiều hy sinh, mất mát, thường được bộc lộ trong các ca khúc của anh. Bằng cách riêng có thể, gắn liền với thân phận ḿnh, nhạc sĩ đă chia sẻ với đất nước, ở một thời kỳ gian truân khốc liệt nhất, những vui buồn, mong đợi, ước vọng sâu thẳm của ḷng ḿnh đối với ngày khải hoàn, hoan ca của lịch sử dân tộc. Nhưng cái vẻ riêng đặc biệt, cái bao trùm rộng lớn làm nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, chính là ở mảng t́nh ca bất hủ của anh. Các ca khúc của anh luôn chứa đựng vẻ đẹp khó tả của ước vọng yêu đương. Nỗi khắc khoải t́nh yêu đă trở thành ám ảnh, khiến nó ngày càng mênh mông đến độ ngôn từ tả thực không thể chuyển tải nổi, và cách bộc lộ của anh dường như đă tiến gần đến trường phái ấn tượng và siêu thực” [39; 280].

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người t́nh lăng du của nhiều thế hệ”, đă tự hỏi: “… v́ sao mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ là giàu chất thơ người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lư về cuộc sống, về t́nh yêu, về sự sinh ra và trở về cát bụi của phận người ngắn ngủi… khi được nhờ chọn một số bài thơ t́nh hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đă tâm đắc tiến cử lời bài ca “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn. Nhưng những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, th́ nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và t́nh yêu” [39; 171].

Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài “Huyền thoại cát bụi” nhận định về âm nhạc Trịnh Công Sơn, ông viết: “… Tôi lắng nghe, âm nhạc Trịnh Công Sơn linh thiêng như tiếng gọi hồn, như sóng âm, như địa chấn, làm loạn nhịp tim tôi và làm loạn nhịp tim biết bao người hâm mộ… Âm nhạc Trịnh Công Sơn đă nâng cao, nối dài, và vô hạn hóa cuộc đời hữu hạn của tác giả. Bao nhiêu là người sẽ c̣n nuôi anh trong hồn. Bao nhiêu là người sẽ c̣n hát với anh và khóc v́ anh. T́nh người không hề vơi trên cơi đời nhưng nó có luật đo lường của nó. Anh cho bao nhiêu th́ sẽ được tặng lại bấy nhiêu, ấy là lẽ công bằng của cát bụi. Xin h́nh dung, tầm vóc con người được xác định bằng tầm vang của trái tim người ấy. Anh là người có âm vang vô tận, âm vang của trái tim thiên tài. Một thiên tài không có tuổi” [39; 164].

Thứ ba là tập Một cơi Trịnh Công Sơn, NXB Thuận Hóa và TTNN Đông Tây, 2004, dày 650 trang. Công tŕnh này gồm 43 bài viết của bạn bè, trong đó có nhiều bài trùng với tập Người hát rong qua nhiều thế hệ, phần phụ lục có văn xuôi Trịnh Công Sơn, đặc biệt có truyện ngắn “Chú Lộ”, và phần phụ lục gồm 73 ca từ của Trịnh Công Sơn.

Đáng chú ư có bài “Trịnh Công Sơn và tiềm thức ‘Thân phận mong manh’” của Nhật Lệ. Ông viết: “Ám ảnh về thân phận, t́nh yêu ẩn hiện trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ca khúc của anh là sự giăi bày với mọi người, giăi bày mà người nghe không thấy chán. Dường như bởi từng góc tâm trạng đều có mặt ta ở đấy. Nỗi buồn của Trịnh Công Sơn đă đặc trưng hóa cho những mảnh tôi “tự ḿnh liếm vết thương”. Ấy nên, người trẻ hay già đều yêu thích hoặc chấp nhận ca khúc của Trịnh Công Sơn ở mức khá phổ cập” [38; 141].

Đánh giá về ca từ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Tuyên viết: “Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan trọng và về mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không dễ dăi tùy tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lư về cuộc đời và điều đáng nói là anh đă t́m được những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách để thể hiện nội dung đó. Đối với người sáng tác, có được một phong cách riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho ḿnh một sự khác biệt lập dị, nhưng bằng t́nh cảm chân thành của ḿnh, anh đă có được một phong cách rất riêng được sự mến mộ của đông đảo công chúng. Sẽ c̣n có nhiều công tŕnh nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhưng phải khẳng định rằng sự nghiệp sáng tác của anh đă góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam hiện đại” [38; 463].

Phạm Phú Phong trong bài viết “Lời thơ trong ca khúc Trịnh Công Sơn” đă nhận định: “Văn Cao, Nguyễn Đ́nh Thi và sau này có Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha… đến với thơ rồi mới đến với nhạc. Với Trịnh Công Sơn, cả hai cùng đến một lúc: khi anh đặt bút xuống ghi những lời ca vào khuôn nhạc, cũng là lúc hồn thơ trong anh ào ạt, dồn đến réo gọi. Hay nói đúng hơn, anh để khuôn nhạc của ḿnh trôi trên ḍng chảy của thơ ca, mà cả hai phía đều ào ạt, cồn cào một cách mănh liệt như nhau. Một nghịch lư khá phổ biến trong nền thơ ca Việt Nam là nhiều người làm thơ nhưng ngôn từ chỉ dừng lại ở lời ca, có khi để lẫn vào ca dao dân gian, trong khi đó, có những người viết lời ca cho nhạc của ḿnh, dù không hề có ư thức rằng ḿnh đang làm thơ, mà ngôn từ ca khúc kia, được giai điệu truyền đến cho tâm hồn người nghe, ḥa nhập ở cửa ngơ của thơ. Trịnh Công Sơn là một trong những người như vậy” [38; 190].

Tác giả Trần Thanh Hà trong bài “Ca hát không mỏi mệt về phận người” nhận định về phận người trong ca từ Trịnh Công Sơn như sau: “Đời người, với Trịnh Công Sơn là một hành tŕnh cát bụi, sự sống chỉ là đối diện với cái chết, trong niềm vui của tuổi trẻ và t́nh yêu đă thấy đâu đó ‘Lau trắng trong tay’ và đường trần là một chuyến khăn gói để ‘Mai kia chào cuộc đời ngh́n trùng con gió bay’. Cái nh́n ấy thật buồn nhưng không hẳn bi quan, bởi v́ cũng trong nó vụt sáng lên cái ư niệm Cát bụi tuyệt vời. Dẫu là thoáng chốc thôi trong thế gian vô cùng, th́ hăy sống cho tận cùng, sống cho đẹp, hăy yêu, yêu em, yêu cuộc đời và yêu mọi người. ‘Làm sao biết từng nỗi đời riêng, để yêu thêm yêu cho nồng nàn’; và dẫu cho rồi Em sẽ đi, mọi điều sẽ mất, cũng hăy vui như mọi ngày, vui như mọi người, dù ‘Chiều nay không ai qua đây hỏi thăm tôi một lời, vẫn yên chờ đêm tới’… Cát bụi hư vô, vậy th́ Em ạ, hăy bỏ đi tất cả, đừng hận thù, hăy nh́n đời qua bằng ánh mắt độ lượng, hăy yêu thương v́ chỉ có yêu thương là cứu chuộc chúng ta, đừng bao giờ đ̣i hỏi, ‘Sống trong đời sống cần có một tấm ḷng, để làm ǵ em biết không? Để gió cuốn đi…’ Trịnh là như thế” [38; 69].

Ngoài ba tập sách của Nhiều tác giả trên, c̣n có ba tác phẩm cá nhân:

Thứ nhất là tập Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ư – một người bạn thân từ thời trai trẻ của Trịnh, do NXB Trẻ ấn hành năm 2003, dày 211 trang. Bửu Ư hiện là giảng viên dạy Pháp văn tại Trường Đại học Sư phạm Huế và cũng là họa sĩ, ông viết lại từng chặng đời của Trịnh Công Sơn và phân tích một số chủ đề và nghệ thuật ngôn ngữ trong ca từ, bên cạnh c̣n có những thủ bút của Trịnh. Ngoài ra Bửu Ư c̣n cung cấp một số bài viết của người nước ngoài viết về Trịnh.

Tiếp đến, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân cho ra đời tác phẩm Trịnh Công Sơn, có một thời như thế, NXB Văn Học, 2003, dày 214 trang. Những tư liệu sưu tầm công phu, đáng tin cậy ấy đă cho ta một cái nh́n xác đáng về cuộc đời của Trịnh. Bên cạnh đó, tác giả đă có công trong việc truy t́m lại bài “Dă Tràng ca” (c̣n có tên “Trường ca Tiếng hát Dă Tràng”), được sáng tác thời học Sư phạm Quy Nhơn bị thất lạc đến nay.

Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường – bạn rất thân của Trịnh - ngoài bài viết “Hành tinh yêu thương của Hoàng tử bé” in ở tập Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ c̣n cho xuất bản tập Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé, do NXB Trẻ xuất bản năm 2004, dày 141 trang, với những bài tùy bút viết về kỷ niệm của hai người và những cảm nhận về nhạc phản chiến, t́nh ca Trịnh Công Sơn.

Tại hải ngoại

Ngay từ ngày 02/04/2001, sau khi Trịnh Công Sơn vừa mất một ngày, Diễn Đàn là tạp chí đưa tin và có bài viết sớm nhất về ông đăng trên mạng Internet, chủ yếu là tập họp các bài viết của bạn bè sinh sống ở Âu, Mỹ. Tiếp đó, trung tuần tháng 4/2001, tạp chí điện tử Văn Học Nghệ thuật đă nhanh chóng đưa lên mạng Phụ trương đặc biệt, phong phú và đa dạng với nhiều bài viết từ trong và ngoài nước, chủ yếu là kể lại những kỷ niệm và cảm xúc của bạn bè dành cho Trịnh Công Sơn.

Tạp chí Hợp Lưu số 59 tháng 6&7/2001 dành 72 trang đầu viết về ông. Trong đó, có bài “Chiêm ngắm đóa hoa vô thường” của Hà Vũ Trọng, khẳng định nhạc của ông là thơ, ông viết: “Chúng ta yêu nhạc Trịnh Công Sơn v́ trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả hai. Tự thơ đă là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài ḥa của chữ nghĩa. Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ t́nh với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc là thơ. Nếu nhạc là con sông th́ thơ là con trăng nhập vào mặt nước thành con thuyền chở t́nh yêu của anh. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở t́nh yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách ĺa được” [43; 17].

Đặc biệt, tạp chí Văn Học tại Cali, số tháng 10&11/2001 dành nguyên một ấn bản chuyên viết về Trịnh Công Sơn. Trong đó, có bài nghiên cứu “Một cái nh́n về ca từ Trịnh Công Sơn” của Trần Hữu Thục rất công phu, ông so sánh kỹ thuật viết của Trịnh Công Sơn khi viết về hai ḍng nhạc tách bạch: ḍng nhạc về chiến tranh – ḥa b́nh, và ḍng nhạc về t́nh yêu, thân phận. Ông nhận định: “… trong hầu hết những bài hát thuộc loại chiến tranh và ḥa b́nh, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chữ nghĩa sống động và đầy h́nh ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt xương đă phơi đồng xanh, đại bác ru đêm dội về thành phố… Mọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào t́nh ca và thân phận. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới chữ nghĩa, ư tưởng bởi v́ có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều h́nh ảnh và ư tưởng cũng như ẩn dụ… tạo ra những h́nh ảnh, biểu tượng mới và rất nhiều khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh: tuổi đá buồn, nắng khuya, mặt trời ngủ yên, miệng ngọt hạt từ tâm” [44; 57-58].

Và kỳ công hơn là bài viết của Bùi Vĩnh Phúc, “Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật”. Bằng phương pháp thi pháp học, ông khảo sát kỹ thời gian và không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Theo ông trong nhạc Trịnh Công Sơn chủ yếu có những loại thời gian nghệ thuật: phai tàn, trông ngóng, hướng vọng thiên thu. Không gian nghệ thuật: gồm Trời đất, Sông núi, Rừng, Biển. Không gian phố. Và cuối cùng ông kết luận: “Trịnh Công Sơn là một thi sĩ. Anh sống trong thời đại của ḿnh, và anh có những giấc mơ. Và nói như Jiris Wolker ‘Qua nhà thơ, người ta nh́n ra được tầm cỡ của thời đại mà ông ta sống’. Có lẽ, nếu muốn, chúng ta cũng thấy được tầm cỡ của thời đại ḿnh qua những giấc mơ và thế giới mà Trịnh Công Sơn đă sống, đă yêu và đă cùng xót xa với chúng” [44; 172].

Kế đến là bài “Trịnh Công Sơn, tiếng hát ḥa b́nh” của Đặng Tiến, bàn về ca khúc phản chiến, ông giải thích: “Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đă có người phản bác, cho rằng mông lung, v́ người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi ḥa b́nh c̣n bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, t́nh tự dân tộc, t́nh yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, t́nh người và hạnh phúc lứa đôi. Những t́nh cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc t́nh thuần túy, nội dung không quan hệ đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến” [44; 176].

Bên cạnh những tác phẩm trên, c̣n phải kể đến một số bài phê b́nh khác in trên tạp chí và trên mạng rất công phu như “Ảo giác, Trịnh Công Sơn” của Lê Hữu, nói về ảo giác con người Trịnh Công Sơn, với nhiều cách nh́n của người ngoài nước. Bài viết đăng trên tạp chí Văn Học tại Cali tháng 02&03/2004; và trên mạng http://www.tcs-home.org.



__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:

Ngoài những công tŕnh trên, chúng tôi c̣n t́m thấy các bài sau đây:

Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn, của GS Cao Huy Thuần b́nh luận sắc sảo về nội dung những bài hát chủ đề này, đăng trên mạng http://www.tcs-home.org ngày 03.05.2003; “Trịnh Công Sơn và những phố xa”, của Ngự Thuyết http://suutap,com phân tích kỹ về không gian phố trong ca từ Trịnh Công Sơn. “Bài phỏng vấn Khánh Ly” của nhà báo Bùi Văn Phú tại Mỹ tháng 7/2004, nguồn Tạp chí Văn (California) số 92, tháng 8/2004.

Ngoài nữa c̣n có nhiều trang web tập họp tất cả h́nh ảnh, bài hát, đĩa nhạc, bài viết, phê b́nh, thủ bút của ông, cập nhật thường xuyên. Như trên trang web http://www.trinhcongson.org tại Mỹ và http://www.tcs-home.org tại Pháp.

Nh́n chung, điểm qua các công tŕnh nghiên cứu, sưu tầm được, tôi nhận thấy như sau:

- Theo thời gian, các công tŕnh nghiên cứu đă cố gắng dựng lại trung thực cuộc đời âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong bối cảnh đất nước trước và sau chiến tranh 1975.

- Hầu như các nhà nghiên cứu đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một hiện tượng văn hóa lớn trong thế kỷ XX, ông không những là một tài năng lớn trong âm nhạc mà c̣n là một nhân cách lớn trong một bối cảnh Việt Nam đầy biến động.

- Nghiên cứu, đánh giá Trịnh Công Sơn nh́n chung thường trong trạng thái hỗn hợp giữa nhạc và lời. Nhưng dù vậy, căn cứ trực tiếp hơn vẫn là thiên về phần lời, phần ca từ. Nghiên cứu về ca từ, phần lớn các công tŕnh nghiên cứu đều phân tích phong phú các chủ đề mà nội dung ca từ Trịnh Công Sơn phản ánh, đồng thời lư giải về mặt sử dụng nghệ thuật ngôn từ một cách tài hoa trong các ca khúc của ông.

Cụ thể bàn về nội dung ca từ của Trịnh Công Sơn, hầu hết các bài nghiên cứu đều nhận định Thân phận con người và t́nh yêu là hai chủ đề nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Thân phận con người của ông thường mang những cặp phạm trù đối lập sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau. Ông ám ảnh phận người mong manh, chóng tàn. T́nh yêu với người nữ của Trịnh Công Sơn là thứ t́nh yêu sương khói, lăng đăng, dở dang. C̣n t́nh yêu con người trong ông, là t́nh yêu thương nhân loại không bó hẹp màu da, chính kiến. Tuy nhiên, trong các bài viết chỉ mới đề cập đến nhưng chưa nêu thành một hệ thống và đào sâu.

Nhận xét ngôn ngữ ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn hầu hết đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một thi sĩ, ca từ của ông đích thực là thơ. Một kiểu thơ lăng mạn, trữ t́nh, giàu chất hiện sinh, siêu thực mang đậm dấu ấn Thiền, Phật, có giá trị lớn về nội dung trong ḷng văn hóa Việt Nam, khẳng định những đóng góp to lớn có ư nghĩa cách tân của ca từ Trịnh Công Sơn trong nền ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn đă tạo thành một trường phái ngôn ngữ mang phong cách Trịnh.

Tóm lại, trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công tŕnh đi trước, luận văn này hệ thống lại, đào sâu thêm, mở rộng hơn nữa, nhằm góp phần khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật ca từ Trịnh Công Sơn trong ḍng văn hóa Việt Nam, dưới góc nh́n văn học.

2.2 Đối tượng, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài

Từ t́nh h́nh nghiên cứu đă nêu ở trên, trong điều kiện tư liệu và khả năng cho phép, chúng tôi xác định đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của công tŕnh như sau:

2.1 Đối tượng nghiên cứu: các ca từ của Trịnh Công Sơn

2.2 Nhiệm vụ:

2.2.1 Phát hiện những nội dung đặc sắc trong ca từ Trịnh Công Sơn ở chủ đề thân phận con người và t́nh yêu

2.2.2 Phát hiện những giá trị ngôn ngữ ca từ của Trịnh Công Sơn trong việc diễn tả thân phận con người và t́nh yêu

2.2.3 Để thực hiện hai nhiệm vụ chính trên đây, luận văn sẽ mở rộng trường nghiên cứu tới một số đối tượng thơ ca, ca từ khác nhằm tạo điều kiện so sánh trong khi khám phá giá trị độc đáo của ca từ Trịnh Công Sơn mà hai nhiệm vụ chính yêu cầu.

...

3.3. Giới hạn đề tài

3.3.1. Âm nhạc Trịnh Công Sơn gồm nhạc và lời, luận văn chỉ nghiên cứu phần lời

3.3.2. Ca từ Trịnh Công Sơn gồm trên 300 tác phẩm. Luận văn chỉ xin giới hạn trong phạm vi 211 tác phẩm mà điều kiện hiện tại cho phép chiếm lĩnh (có phụ lục kèm theo)

3.3.3 Nội dung ca từ Trịnh Công Sơn rất phong phú. Luận văn chỉ giới hạn ở hai chủ đề cơ bản nhất, chứ chưa phải là tất cả thế giới tâm hồn mà Trịnh Công Sơn phản ánh. Hai chủ đề đó là thuộc hai nhiệm vụ chính đă được nêu lên trong luận văn.



*


Trong phần Mở đầu luận văn tôi đă nói rơ ràng, đây là một sự kế thừa những người đi trước, như nhận định của ông Vũ Đông Ngọc: “Nét sáng tạo trong luận văn của tác giả Ban Mai có thể chưa nhiều, nhưng những cố gắng tổng hợp và hệ thống hóa là có”.

Tôi tin rằng tôi đă làm việc nghiêm túc, tự trọng, đúng giới hạn của đề tài nêu ra. Riêng phần sai sót khi hiệu đính tư liệu tham khảo tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm không liên quan đến người hướng dẫn.

Kính chào ông.

Việt Nam, 31.8.2006

(Tái bút: Bắt đầu từ hôm nay tôi chấm dứt tham gia đối thoại.)
Ban Mai

__________________
My Thuat Viet Nam
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard