Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Tiểu sử Karl Marx


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
Tiểu sử Karl Marx


Tiểu sử Karl Marx Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của đấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đă gây nên các hoạt động của xă hội. Trong thời đại La Mă, đă có các giai cấp quư tộc, hạ lưu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu tước, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, đă có các tranh chấp giữa giới tư sản (the bourgeoisie) với đa số thuộc giai cấp trung lưu thành thị mới, sở hữu các cơ xưởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất. Marx và Engels đă mô tả sự phát triển của giới tư sản là do giới này đă nắm được quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trướng thị trường, giới tư sản đă thiết lập được các mạng lưới mậu dịch nhờ đó mang về các nguyên liệu rẻ tiền đồng thời giới tư sản này siết chặt quyền kiểm soát tư bản, các phương tiện sản xuất và trao đổi. Sự bành trướng kỹ nghệ đă khiến cho gia tăng giai cấp công nhân vô sản, họ là những người giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số người thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tư sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản đang lớn mạnh này. Theo Marx và Engels, trước các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp đoàn để đ̣i hỏi tăng lương. Các vụ rối loạn đôi khi xẩy ra, nghiệp đoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhưng các công nhân dần dần đoàn kết lại, để chống lại các kẻ đàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế độ mới được gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền v́ quyền lợi của giới vô sản. Trong xă hội cộng sản này, quyền tư hữu sẽ bị băi bỏ, các nhà máy và các phương tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nước (state). Nhà Nước kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phương tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nước chăm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng để chi trả các chi phí nhưng mục đích của các hoạt động xă hội là sự an lạc của giai cấp lao động, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không c̣n sự phân biệt giai cấp nữa và mọi người sẽ “làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu”. Những lời tiên đoán của Marx và Engels đă bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi v́ sau khi chế độ cộng sản lan tràn tại nước Nga và tại phần Đông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới đảng viên Cộng Sản đă khéo léo bóc lột nhân dân hơn cả bọn tư bản, đă hưởng thụ mọi đặc quyền đặc lợi một cách kín đáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xă hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không được phép kêu than bởi v́ mọi tổ chức xă hội do Đảng Cộng Sản độc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xă hội do bọn Công An canh chừng và theo dơi nghiêm ngặt. Do quan niệm về Tiến Hóa đă được mọi người quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx đă dùng lư thuyết về “Đấu Tranh Giai Cấp” để cắt nghĩa lịch sử và tin rằng điều này không thể bác bỏ được. Ngoài ra, một đóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xă hội là cách phát triển một nguyên tắc được gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mơ hồ, vừa khó hiểu. Phương pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học người Đức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trương rằng mọi sự vật đều ở trong trạng thái biển đổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực đối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc địa của người Anh đối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đă sinh ra nước Hoa Kỳ và như vậy “định luật của đời sống là các tương phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ đề này đă dẫn Karl Marx tới cách thành lập lư thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa lịch sử bằng kinh tế. Marx và Engels đă cho rằng “lịch sử của các xă hội hiện hữu là lịch sử của giai cấp đấu tranh. Người tự do và kẻ nô lệ, giới quư tộc và giới hạ lưu, hạng hầu tước và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn đối đầu với nhau, họ thường xuyên gây chiến với nhau”. Trong bài điếu văn nói về Marx, Engels cho biết rơ hơn: “Karl Marx đă khám phá ra một sự việc đơn giản, ẩn nấp dưới sự phát triển ư thức hệ, đó là các con người trước tiên cần tới đồ ăn và nước uống, quần áo và nơi trú ẩn trước khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phương tiện sinh tồn và các giai đoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời đại, đă tạo nên nền móng của các định chế của quốc gia, cũng như các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ư tưởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành v́ đồ ăn và nơi trú ẩn rơ ràng xác định mọi hành động của con người. Theo Karl Marx, lịch sử của nhân loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, đây là loại xă hội không giai cấp nhưng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, đầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lănh lương trong chế độ tư bản. Áp dụng lư thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng bước tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền độc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng đồng và sự quay về cách tổ chức một xă hội không giai cấp. Trong cuốn “Tư Bản Luận”, Marx đă làm phát triển một trường hợp chống lại hệ thống tư bản để chứng minh rằng chế độ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một điều không tránh khỏi. Những người Cộng Sản coi sự đóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xă hội là “lư thuyết về giá trị lao động” (the theory of labor value). Thực ra, căn gốc của lư thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời đại trước như Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao động là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx đă dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo đó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao đổi giữa các lao động, giá trị của mọi thứ được đo lường bằng lao động”. Từ Adam Smith, Marx đă mượn định nghĩa về tư bản như sau: “tư bản là một lượng lao động được lưu trữ”, c̣n Ricardo đă từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải được xác định theo số lượng lao động bên trong. Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lư thuyết về “giá trị thặng dư”, vấn đề này được xác định trong cuốn sách “Phê B́nh nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng được xét lại trong tác phẩm “Tư Bản Luận” theo đó người công nhân v́ không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) để bán hầu mong tránh khỏi bị chết đói, đó là sức lao động của chính ḿnh. Chủ nhân đă mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, v́ vậy giá trị thực của sức lao động không đúng theo số tiền lương đă trả cho người công nhân. Người công nhân được trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhưng đă bị bắt buộc lao động trong 10 giờ. Số 4 giờ dư này đă bị giới tư bản ăn chặn. Karl Marx lư luận rằng v́ vậy, lợi tức, tiền lời v.v. đều xuất ra từ sự thặng dư lao động do người công nhân bị bóc lột và như vậy hệ thống tư bản chỉ là một chế độ khai thác và bóc lột giới lao công. Lư thuyết về giá trị và thặng dư lao động của Karl Marx đă được dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy động. Ngày nay, các nhà kinh tế đă coi lư thuyết này vô giá trị. Một lư do để bác bỏ lư thuyết về sức lao động của người công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ đó đă có các thay đổi lớn lao về sức lao động cần dùng. Solomon Bennett Freehof đă viết rằng: “nhà hóa học đă khám phá ra cách làm cho đất đai ph́ nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Năng suất (productivity) được tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lư luận rằng: “người ta lặn xuống nước ṃ ngọc trai bởi v́ ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không v́ công sức của thợ lặn”. Karl Marx đă không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lư và tổ chức đă góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không đồng ư với Karl Marx về cách đo lường giá trị. Các tiêu chuẩn được chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng. Trở về lư thuyết giá trị thặng dư (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tư bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lương bổng, dùng các lao động rẻ tiền hơn như đàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả như sau: “giới tư bản đă cắt xén người lao động thành một phần của con người, làm giảm giá con người tới mức độ là một thành phần của máy móc, phá hủy những điều thích thú trong việc làm và biến người công nhân thành một dụng cụ đáng ghét. Giới tư bản đă bóp nghẹt các tiềm năng trí thức của người công nhân, làm lệch đi các điều kiện lao động, bắt người công nhân phải sống trong một chế độ độc đoán, khiến cho người công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của người công nhân nằm dưới bánh xe khủng khiếp của tư bản”. Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc để gia tăng sản xuất không làm dễ dàng cho người công nhân mà c̣n tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác đàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất đi hứng thú của người công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất để đàn áp các vụ đ́nh công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền độc tài của giới tư bản. Máy hơi nước là bước đầu tiên của nhà tư bản đạp lên các đ̣i hỏi của các công nhân. Kể từ năm 1830 có cả một lịch sử các phát minh được dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”. Karl Marx c̣n cho rằng “sự quá đông dân” (overpopulation) luôn luôn đi kèm với con đường tư bản, khi mà các kỹ nghệ mới được tạo ra, các kỹ nghệ cũ được sửa lại th́ hệ thống tư bản cần đến “một đạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dư lao động dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi v́ các công nhân bị trả lương tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trường bị ứ đọng, sức lao động giảm đi và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi t́m ṭi các lối thoát cho các nhà kho chứa đầy hàng hóa, nhà tư bản chuyển sản phẩm sang các thị trường ngoại quốc, cố gắng t́m kiếm các xứ chậm tiến để đổ tháo các hàng hóa mà người công nhân không có khả năng mua vào. Sự cố gắng này và việc t́m kiếm các nguyên liệu rẻ tiền để giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt động đă dẫn tới các xung đột quốc tế và các cuộc chiến đế quốc. Karl Marx tin tưởng rằng kết quả của các xung đột và rối loạn của chủ nghĩa tư bản là sự gia tăng việc tập trung và độc quyền bởi v́ “một nhà tư bản sẽ giết chết các nhà tư bản khác”. Như vậy giới trung lưu sẽ biến đi, các tư bản nhỏ sẽ bị các tư bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ c̣n một số nhỏ tư bản gộc đối đầu với giới vô sản là đa số. Lúc này là cơ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tư Bản Luận, có đoạn nói như sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần th́ cũng tăng dần số lượng nghèo khó, đàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Đồng thời cũng gia tăng ḷng phẫn nộ của giai cấp lao động, một hạng người mỗi ngày một đông hơn, có kỷ luật hơn, biết đoàn kết và có tổ chức. Sự độc quyền của chế độ tư bản trở thành cách kiềm chế phương pháp sản xuất trước kia đă phát triển. Việc tập trung các phương tiện sản xuất và xă hội hóa lao động đi tới một điểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tư bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tư sản và các nhà tư bản sẽ bị tịch thu tài sản”. Theo Karl Marx, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền độc tài và Karl Marx báo trước rằng “đây là giai đoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xă hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rơ nền độc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Đất nước Liên Xô nằm trong tầm tay của chế độ cộng sản độc tài sắt máu hơn 70 năm mà người dân Nga vẫn nghèo đói, vẫn ngạt thở. Hơn nữa Karl Marx rất mơ hồ trong việc mô tả một xă hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục đích chính của xă hội cộng sản là “mỗi cá nhân được phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo đúng nguyên tắc cộng sản là “mọi người làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!) Giấc mơ không tưởng hoàn toàn đẹp đẽ này rất tương phản với công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu và vô cùng tàn ác đă từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx c̣n công bố rằng các tôn giáo cổ xưa như Thiên Chúa giáo, đă dạy cho mọi người cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các đức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, v́ vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, đă làm cho giai cấp vô sản mù ḷa, không nh́n thấy đường lối phải đi và tôn giáo đă đặt các chướng ngại trên con đường cách mạng. Theo thực tế, lư thuyết và các tiên đoán của Karl Marx đă hàm chứa các sai nhầm căn bản bởi v́ chế độ tư bản đă đi theo một con đường khác, bởi v́ trong khi xă hội tư bản phát triển th́ các sửa chữa vẫn được thực hiện. Tại các quốc gia tư bản, giai cấp công nhân đă không bị nghèo đói. Các nghiệp đoàn lao động và các luật lệ của chính quyền đă kiểm soát sự cạnh tranh, loại bớt các bất công và các xấu xa của chế độ tư bản, mang lại sự phong phú cho mọi người. Karl Marx đặt hy vọng vào t́nh đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đă xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xă hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany. Karl Marx cũng tiên đoán rằng các cuộc cách mạng vô sản sẽ bùng nổ tại các quốc gia kỹ nghệ cao như nước Anh, nước Đức, Hoa Kỳ v.v. trong khi Liên Xô và Trung Quốc bị Karl Marx khinh rẻ, không coi là các nơi thích hợp cho chế độ cộng sản. Nh́n lại lịch sử của Liên Xô, mọi người thấy rằng quốc gia này không phải là một đất nước Cộng Sản và Stalin không phải là một con người Cộng Sản theo như Karl Marx đă định nghĩa, và các lănh tụ Cộng Sản kể từ Lenin đă dễ dàng tuyên truyền Chủ Nghĩa Mác Xít hơn là thực hiện đúng theo chủ nghĩa này, cho nên có người đă nói rằng “nếu Karl Marx sống vào thời Stalin, ông ta sẽ chết sớm”. Tập sách đầu tiên của Bộ “Tư Bản Luận” được xuất bản vào năm 1867, đă được coi là “Thánh Kinh của giai cấp lao động”. Sau khi Karl Marx qua đời vào năm 1883, Fredrick Engels đă thu thập các tài liệu của Marx một cách thiếu đầy đủ, thiếu xếp đặt phân minh rồi Tập II ra đời vào năm 1885 và Tập III vào năm 1894. Hai tập sách này đề cập tới “sự lưu thông của tư bản” (the circulation of capital) và phương pháp sản xuất của chế độ tư bản. Đối với 3 tập sách, nhiều người chỉ đọc Tập I và danh tiếng của Karl Marx nhờ vào tập sách này. Ngoài ra Karl Marx c̣n viết ra tập thứ tư, tên gọi là “Lư thuyết của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) do Karl Kautsky biên tập từ các bản thảo của Karl Marx và xuất bản tại nước Đức từ năm 1905 tới 1910. Cuốn “Tư Bản Luận” (Das Kapital) là một cuốn sách khó hiểu. Nhà phê b́nh Barzun đă mô tả cuốn này là “viết dở, thiếu thứ tự, thiếu lư luận và tính đồng nhất về tài liệu”. Nhà sử học William Henry Chamberlin b́nh luận rằng phương pháp Duy Vật Sử Quan của Karl Marx đă bỏ qua các yếu tố quan trọng như sắc dân, tôn giáo và đặc tính quốc gia, đă không kể tới sự quan trọng của bản chất con người. Một nhà phê b́nh khác nhận xét rằng Karl Marx gây nên nhiều chết chóc, nghèo khổ, suy thoái và thất vọng cho nhân loại, nhiều hơn tất cả các nhà tư tưởng khác. Theo Thomas Patrick Neill, Karl Marx là “lănh tụ đại diện cho các kẻ không có ǵ (the have-nots) trong công cuộc chống lại các kẻ có tài sản (the haves)”. Karl Marx thôi thúc ḷng tham vọng và ghen tuông về quyền lực, chủ trương phá bỏ nền đạo lư đương thời, bởi v́ ông ta quá kiêu căng, nhiều ghen tức. Karl Marx v́ sống trong cảnh nghèo túng, đă nói lên các bất công trong xă hội tư bản khiến cho xă hội này phải sửa chữa các sai lầm; mặt khác, lư thuyết của Karl Marx có sức tàn phá ghê gớm, đă từng giết hại hàng chục triệu con người vô tội trong chính các xứ cộng sản do chủ trương “đấu tranh giai cấp”.


Phạm Văn Tuấn



-- Edited by BaHa at 06:45, 2006-08-06

-- Edited by BaHa at 06:46, 2006-08-06

__________________
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard