Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: HUE :Đất Ca Dao


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
HUE :Đất Ca Dao


 
Đất Ca Dao


** Viết lại từ một cuộn phim tài liệu Vẻ Đẹp Miền Trung.
Xin chia sẻ với tất cả cư dân phố Rùm, đặc biệt, thân mến gửi đến những người bạn, như Giáng Tiên, 123, HSHB, Biển Nhớ, Tiểu Ni, Đại Đế, Beti, các chị Tvmt, HD, , PC, Bồng Lai, anh MinhHao, Camel, , LeĐa, Minh-Vi, Bùm Bùm, PAK (1 nhân vật đặc biệt, chỉ xuất hiện một lần và chỉ một lần, duy nhất), và .... , những người đă giành cho TAX nhiều sự ưu ái, thân t́nh, đáng trân trọng, bấy lâu. **




(Trich tu : TaAoXanh- Dac Trung )




Sách Âu Châu Cận Lục của Dương Văn An, thế kỷ thứ 16, có đoạn viết về Huế

"Mặt đất non sông tươi đẹp, biển cả sóng nước mênh mông"

C̣n trong dân gian được truyền tụng

"Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ"


Không chỉ cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp, Huế trước đây c̣n là kinh đô của nhà Nguyễn hàng trăm năm, nên đă hội tụ văn hoá nhiều miền của đất nước, tạo nên một di sản văn hoá đồ sộ, trong đó có CA DAO.

Ca dao Huế có câu

"Hồ Tịnh Tâm nhiều sen Bách Hợp
Đất Hương Cần ngọt quưt thơm cam"


Câu ca dao như thế thường xuất phát từ xúc cảm của con người trước thiên nhiên và cuộc sống, rồi v́ lời hay ư đẹp nên lan dần trong dân gian, và truyền tụng từ đời này sang đời khác. Ca dao cũng biến đổi theo thiên nhiên, con người, và những thăng trầm của thế sự.

"Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang"


Rồi th́ qua một cuộc bể dâu, ca dao lại đổi khác

"Phá Tam Giang ngày rày đă cạn
Truông Nhà Hồ Nội Tán, cấm nghiêm"


Đó là những câu ca dao nói về đoạn đường gian khổ, khó khăn, khi từ Bắc vào Huế. Ngày nay, phá Tam Giang được bồi đắp dần dần và trở thành những mảnh đất màu mỡ cho con người canh tác.

Ngày xưa, từ Bắc vào Nam đă khó, nhưng từ Nam ra Huế cũng chẳng dễ dàng

"Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghành đá, tủi thân thêm buồn"


Đèo Hải Vân nằm giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, từng được gọi là Đệ Nhất Hùng Quan. Đường bộ là thế, c̣n đường biển th́ có Hang Dơi

"Đi bộ th́ khiếp Hải Vân
Đi thuyền th́ sợ sóng thần Hang Dơi"


Ca dao Huế c̣n lấy sự trường tồn của cảnh quan để so sánh với tấm ḷng thủy chung của con người

"Núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Dẫu ai ăn ở hai ḷng
Em đây vẫn một dạ thủy chung với chàng"

"Núi Truồi ai đắp nên cao ?
Sông Gianh ai bới, ai đào, mà sâu ?"


Ca dao Huế c̣n có ư nghĩa gợi nhớ công lao của bậc tiền nhân, hay, ta thán về nhân t́nh thế thái. Huế ngày nay được xem là một bảo tàng lộ thiên với điện ngọc, đền vàng, lăng tẩm. Đó chính là di sản văn hoá vật chất về di tích cố đô, và là di sản văn hoá của cung đ́nh Việt Nam. Những tố chất đó là nguồn cảm hứng cho con người. Bởi thế, ca dao xứ Huế không chỉ ngợi ca về thiên nhiên, nói về nhân t́nh thế thái, mà c̣n t́m thấy được h́nh ảnh của kiến trúc cố đô Huế trong ca dao.

"Ngọ Môn năm cửa, chín lầu
Cột Cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng"

"Đi mô cũng nhớ quê ḿnh
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự B́nh trăng thanh"


Chính những điệu ḥ, những câu ca dao nặng t́nh yêu thương quê hương đất nước, đă thấm đẫm vào con người Huế từ thuở ấu thơ. V́ thế, mỗi lần giỗ, Tết, được trở về cố thổ để tưởng nhớ Tổ Tiên, thăm lại bà con, bạn bè, bên chén trà, chung rượu, ôn cố tri tân, bao giờ cũng vẫn là điều mong ước. Một t́nh cảm thiêng liêng không xoá nhoà được trong ḷng ngươi Huế tha hương.

Huế là một miền đất có một cảnh quan thơ mộng, xinh đẹp, và từ đời sống thiên nhiên đó, ca dao đă được h́nh thành. Cứ mỗi địa danh, gần như có một câu ca dao. Ví dụ cụ thể như chúng ta đi từ thượng nguồn sông Hương về hạ nguồn sông Hương, th́ sẽ thấy có những câu ca dao như là:

"Gió đưa cành trúc la đà
Tiêng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"


Đến Kim Long th́ có câu:

"Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến nơi đây là ngả rẽ của ḷng
Biết nơi mô bến đục, bến trong cho em nhờ ?"


Rồi Phú Văn Lâu, rồi Cầu Trường Tiền, rồi Chợ Đông Ba, tất cả đều có một gịng chảy của ca dao. Và, có nhiều nhà thơ, nhà nho, cũng đă làm cho nền ca dao phong phú lên. Cụ thể như những câu ḥ mái nh́, những câu ca dao của Ưng B́nh Thúc Giạ Thị cũng đă làm cho nền văn học dân gian trở nên sinh động, và nó đi vào trong tâm thức của con người. Cụ thể như câu ḥ mái nh́:

"Chiều chiều, trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh ḷng nước non"


Ca dao Huế cũng là nơi gửi gắm của ḷng người ưu tư theo vận nước. Tương truyền vào khoảng đầu năm 1916, Trần Cao Vân thường đến ngồi câu cá ở Phú Văn Lâu để chờ gặp vua Duy Tân. Bên kia sông, con thuyền thấp thoáng để chờ đón vua rời khỏi kinh thành, ra đi khởi nghĩa. Không ngờ, âm mưu bại lộ, vua Duy Tân bị bắt và bị lưu đày. Ngày nay, lời ru cảm thán về vận nước vẫn c̣n in đậm trong ḷng người dân Huế.

Ca dao c̣n là nơi gửi gắm nỗi ḷng uẩn ức trước những hà khắc của chế độ phong kiến.

"Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân"


Vạn Niên là một kiến trúc cầu kỳ nằm trong Lăng Tự Đức. Ngày nay, Lăng Tự Đức trở thành một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng như một bức tranh sơn thủy hữu t́nh, gợi cho du khách một hồn êm thơ mộng.

Ca dao đi vào nông thôn với những lời khuyên cần kiệm

"Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi Thân, Dậu lấy ai bạn cùng"


Là một lời cảnh báo trước hiểm hoạ thiên nhiên trong vùng đất thường xảy ra thiên tai. Là lời nhắc nhở con người: hăy sống thủy chung.

Cách thành phố Huế 7 km, có cầu ngói Thanh Toàn. Cầu được phỏng theo cầu Nhật ở Hội An. Ở đây, ca dao không chỉ nói đến một địa danh, mà c̣n ghi nhớ đến một tấm ḷng hào hiệp của con người.

"Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui"


Qua ca dao, không những làm ta liên tưởng đến lịch sử, thắng tích của Huế, mà c̣n biết đến những địa danh với những đặc sản riêng của từng vùng.

"Ru em cho thét, cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Mam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim"


Tuy ca dao xuất phát trong giới b́nh dân, nhưng nhiều câu rất nên thơ, và ư nghĩa đậm đà, dễ xúc cảm người nghe, nên được nhiều người yêu thích và sưu tầm. Cụ Ưng Luận là một trong những con người đó. Ông sưu tầm ca dao bởi một tấm ḷng, như câu thơ của Thanh Tịnh:

"Ước ǵ để lại mai sau
Một câu, một chữ, đượm màu dân gian"


Như sợ ca dao mai một theo gịng thời gian, cụ Ưng Luận vẫn ngày đêm miệt mài với công tŕnh t́m kiếm ca dao của ḿnh, để mong đóng góp một phần nhỏ vào kho tàng văn học dân gian của cố đô.

"Ca dao đă truyền tải được nhiều đền đài, thắng tích, kể cả cuộc sống của vua chúa, như là ca dao xứ Huế. Đọc ca dao xứ Huế, chúng ta sẽ thấy cả Ngọ Môn, Cột Cờ, Văn Thánh, Vơ Thánh. Biết được Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Đào Duy Từ, chẳng hạn. Cụ Ưng Luận là một người rất từng trăi ở Huế. Tuổi cao. Cụ vốn là một người có uy tín ở trong hoàng tộc cũ. Là nhà giáo lâu năm, nhà hoạt động văn hoá. Có lẽ, nhờ những đặc điểm đó mà cụ đă gom góp lại được cái kho tàng trí tuệ này. Tŕnh bày một cách, có thể nói là, khá sắc sảo, hóm hỉnh, với cái nh́n của một người từng trăi. Ca dao xứ Huế do cụ biên tập và b́nh giảng, đă giúp cho người dân xứ Huế, nh́n lại ḿnh một cách kỹ hơn, soát xét lại kho tàng trí tuệ của Cha Ông ḿnh, và tiếp nhận nó để đi vào cuộc sống hiện nay."

Huế từng là kinh đô của nước Việt trong thời gian dài, nên đă quy tụ nhiều danh nhân khắp các địa phương. Bởi thế, ca dao có câu xuất phát từ Huế, nhưng cũng có câu từ nơi khác đến. Theo tạp chí Nam Phong số 10 tháng 4 năm 1918, th́ một nhà báo miền Bắc, nhân dịp dạo thuyền trên sông Hương vào đêm khuya, đă cao hứng viết hai câu:

"Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"


Không ngờ hai câu thơ này đă gây nhiều cuộc bàn căi sôi nổi. V́ chùa Thiên Mụ ở Huế, c̣n huyện Thọ Xương th́ ở Hà Nội.

Có lẽ, nhà báo này đă nhớ đến câu thơ của cụ Dương Khuê:

"Phất phơ ngọn cỏ trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vơ, canh gà Thọ Xương"


Huế cũng có những câu ca dao mang phong cách riêng của ḿnh, không thể lầm lẫn xuất xứ, như lời ca dao nói về cầu Tràng Tiền:

"Cầu Tràng Tiền 6 vài, 12 nhịp
Anh qua không kịp, tội lắm, em ơi !
Nghĩa tào khang ai mà vội dứt
Đêm nằm tâm tức, lụy nhỏ tuôn rơi
Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời
Dẫu có xa nhau đi nữa ...
Dẫu có xa nhau đi nữa ... cũng bởi ông trời mà xa."


Ca dao Huế đến nay vẫn c̣n giữ được sức sống, và c̣n tiếp tục hoà nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của tiền nhân, trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. Là một di sản văn hoá của dân gian, ca dao Huế, một kho tàng trí tuệ độc đáo, một gia tài văn hoá cộng đồng, đă trăi qua nhiều thử thách của năm tháng. Người ta có thể t́m thấy được ca dao từ những câu hát ru con, những câu ḥ trên sông nước, thường nghe được ở Huế và các vùng phụ cận. Trong gần 400 năm, từ năm 1558 đến 1945, Huế là một trung tâm chính trị của vua chúa Nguyễn. Bao nhiêu tinh hoa của nhiều thế kỷ đă hội tụ về miền sông Hương, núi Ngự, để tạo nên một vùng đất văn hoá vô cùng đặc sắc. V́ thế, qua ca dao, người ta có thể thấy được ba yếu tố: Thiên Nhiên, Kiến Trúc, và Con Người Huế, đă hoà quyện với nhau, nuôi dưỡng nhau, để Huế trở nên một vùng đất của Thơ, bầu trời của Nhạc, và thế giới của Tâm Hồn.


__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: HUE :Đất Ca Dao


Nói đến Huế nhiều người nghĩ đến mưa . Mưa Huế buồn, dai dẳng và lạnh lắm .

Thường th́ trăng ở Huế rất sáng đêm 16/8, tức ngay sau đêm Trung Thu . Đó là dấu hiệu cho biết mưa nguồn, mưa lũ đă bắt đầu về với Huế .

Đến tháng Chín th́ Huế mưa “vuốt mặt không kịp, cất mặt không lên”, “tối con mắt, tắt đĩa dầu”

Tháng Chín, tháng Mười ai cười mang tơi (1)

mà người Huế gọi một cách rất tượng h́nh là “mưa lụt”.

Cao điểm của “mưa lụt” xảy ra vào tháng Chín . Gần như năm nào cũng xảy ra đến nỗi người dân quê Huế dám quả quyết:

Tới ngày trùng cửu không mưa
Cha con làm ruộng bán cày bừa mà ăn !


Có năm cơn mưa lũ ở Huế kéo dài đến cuối tháng Mười rồi “bà trời Huế “ bắt đầu ra tay:

Ông tha mà Bà chẳng tha
Bà làm cái lụt hăm ba tháng mười


Nhưng . . . lụt hăm ba tháng mười là lụt nhẹ nhất trong năm v́ bà trời Huế “giơ cao đánh sẻ” . Tuy cũng có mưa nguồn và nước lũ nhưng không có cuồng lưu mà chỉ là mưa trên đồng vắng hay những ḍng nước bạc uốn lượn dưới chân cầu Trường Tiền . Những năm ông không tha th́ Huế lụt lớn .

Sau mùa thu mưa Ngâu và mưa lụt, Huế vào đông . Mùa đông ở Huế lạnh lắm, lạnh từ trong ruột lạnh ra, lạnh từ ngoài da lạnh vào cho nên mới có câu ca dao:

Tháng Ba mụ tra (2) cũng tốt
Tháng Mười Một con gái tốt cũng hư


Có những năm mưa to, gió lớn kéo dài lê thê đến nỗi cá voi ngoài biển khơi bị chết, xác trôi giạt vào bờ . Dân Huế ở ven biển sống bằng nghề đánh cá tổ chức làm đám, chôn cất cẩn thận, thờ cúng các “ôn, bà” cá voi trọng thể v́ họ xem đó là những vị thần thường phù hộ và che chở họ khi họ ra ngoài khơi đánh cá . “Ôn” bị chết nên mới gọi là “ôn lụy” . V́ vậy, mỗi khi mưa to gió lớn kéo dài hàng tuần hoặc có khi cả tháng, người Huế thường nói “mưa như Ôn lụy, Bà lụy”.

Đó là những ǵ mà người dân Huế trên mảnh đất nghèo đói gánh chịu hàng năm . V́ xảy ra thường xuyên nên sự bất hạnh của người dân Huế đă được đưa vào những câu ca dao b́nh dị mà trong đó không có một lời than trách như sẵn sàng chấp nhận tai ương sẽ phải đến với ḿnh .

Tai ương đến thường lắm [:( . Đó là cơn lụt năm Giáp Th́n 1904, 1964, cơn lũ lụt năm Kỹ Măo 1999 .
Trich : BienNho - Dac Trung

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng

Văn miếu trồng thông, Vơ miếu trồng bàng
Ngó qua Cơ Mật hai hàng mù u

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử áo điều vắt vai

Kim Long có gái mỹ miều
Trẩm yêu trẩm nhớ trẩm liều trẩm đi

Công tằng tôn nữ trong cung
Con út chưa chồng ḿnh hạc xương mai

Một mai dựa mạn thuyền rồng
C̣n hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài

Ra đi mạ đă dặn rồi
Đem tơi đem nón cả chiều ông mưa

Rau cam khổ nấu với cá ngạnh nguồn (1)
Con ngư núp bóng kho luồn măng le (2)

Ở mô cũng có anh hùng
Ở mô cũng có thằng khùng thằng điên

Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Con vua lấy thằng bán than
Nó lên trên ngàn cũng phải lên theo

Phận nghèo bấm bụng nằm co
Giàu thời nem chả bún ḅ gị heo

Hoành sơn nhất đái chim về cội
Vạn đại dung thân đọi bún ḅ

Ví dầu đèn tắt có trăng
Cực em th́ em chịu chớ biết mần răng mà đặng chừ

Cá trong lừ đỏ hoe con mắt
Cá ngoài lừ ngúc ngoắc muốn vô...!

Không qua nằm bến nhớ trăng
Lỡ qua lại sợ đ̣ ngang không chèo

Đầu rồng đuôi phụng le te
Mùa xuân ấp trứng mùa hè nở con (3)

Sen xa hồ sen khô hồ cạn
Lựu xa đào lựu ngả đào nghiêng

Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen

Sen không hương như cá ươn ngoài chợ
Như trai ế vợ, như gái lỡ thời

Cá không cắn câu chê rằng cá dại
Vác cần câu về nghĩ lại cá khôn

Mắm ni ăn ngậm mà nghe
Ngẩn ngơ chi rứa ngó quê lắm chàng

Học tṛ trong quảng ra thi
Thấy cô gái Huế bước đi không đành

Huế thơ huế mộng
Huế tộng bộng hai đầu

Ai ra xứ Huế th́ ra
Ai về là về bến Ngự
Ai về là về sông Hương

Chuông già, động đến chuông kêu
Anh già giọng nói, em xiêu tấm ḷng

Gần nhà mà xa cửa ngơ,
Cho chộ mà nỏ cho ăn, (4)
Trời cao dẫu mấy mươi tầng,
Cũng bắc thang lên mà hỏi, bởi làm răng, rứa ông Trời?

(1) Rau cam khổ: rau má
(2) Con ngư núp bóng: con tôm
(3) Tả hàng cau
(4) Chộ: nh́n. Nỏ: không
Trich : HUVO - Dac Trung

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: HUE :Đất Ca Dao


Huế với QN là bạn láng giềng, nhưng mà sao nhiều khác nhau. Nh́n chi cho xa, ḍm cái bánh bèo không th́ đủ thấy. Bánh bèo QN th́ to bành ki, trong khi bánh bèo Huế lớn hơn đồng 5 dác (?) chút xíu. Rồi cái bánh xèo cũng vậy, một bên th́ bự tổ chảng, c̣n một bên th́ gọi là khoái, nhỏ tí tị.

Thôi trước khi bợ mấy câu ca dao vào, nói chuyện với các bạn một chút. Đọc lại

"Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi Thân, Dậu lấy ai bạn cùng"

QN có,
"Được mùa chê gạo già hơi,
Hết mùa ăn cám với tấm trời ơi là trời."

"Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghành đá, tủi thân thêm buồn."

QN,
"Chiều chiều ra đứng ngơ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều."

"Ru em cho thét, cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Mam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim"

QN,
"Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Vĩnh Điện, mua trầu Hội Ạn"

TAX làm BL nhớ lại khi xưa Má của ḿnh hay hát ru con bài đó. Thời ấy, mấy người lớn cử nói trẻ con ngủ, mà nói trớ là thét (không biết viết có đúng không nữa ?)

"Núi Truồi ai đắp nên cao ?
Sông Gianh ai bới, ai đào, mà sâu ?"

"Núi kia ai đắp mà cao ?
Sông kia, biển no
"Bồng em mà bỏ vô nôi,
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An "

Có ai biết chợ Quán chợ Cầu này ở đâu không ?

"Gió đưa cành trúc la đà
Tiêng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"

"Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ"

"Cầu Tràng Tiền 6 vài, 12 nhịp
Anh qua không kịp, tội lắm, em ơi !

Gơ lại mất hứng, thôi gặp đâu hỏi đó. 6 vài, 12 nhịp. Vài là cái ǵ, có bạn nào biết, giải thích dùm cho BL với. Đoán là một vài th́ bằng 2 nhịp. Xin cám ơn.

Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng.

Chiều chiều ông Lữ đi câu,
Bỏ ve bỏ chén bỏ bầu ai mang.
Gió đưa gió đẩy bông trang,
Ai đưa ai đẩy duyên nàng tới đây?
Tới đây th́ phải ở đây,
Để cho bén rễ sinh cây hăy về.

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử áo điều vắt vai

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội nhớ niêu nước chè,
Nhớ hồi thượng mă pháo xe,
Nhớ ... chén đường non...


Thôi mang mấy câu ca dao của Huế về các món ăn vào.


Mời chị mời anh chén bánh canh Nam Phổ
Xơi vô bổ khoẻ, có chất bổ, có mùi hương
Lại thêm mát mẻ can trường,
Sâm Cao Ly cung sút, rượu quỳnh tương cũng không b́
( Thơ ca – Ưng B́nh Thúc Giạ Thị )

Bột lọc mà bọc nhuỵ tôm
Hai tay bóc lá cái mồm há ra.

Con quạ hắn đậu chuồng heo
Hắn kêu ơi mụ Sỏi bánh bèo đă chín chưa?

Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo de (?) An Cựu mà nuôi mẹ già.

Đưa em cho tới làng Hồ,
Em mua trái mít em bồ trái thơm.
Trái thơm là trái thơm non,
Bỏ vô hũ mắm ăn chon(gịn) như dừa.
lẽ ra là bù, nhưng có lẽ cho vần nên thành bồ

Thương chồng nấu cháo le le (vịt ?),
Nấu canh bông , nấu chè hạt sen.

Các bạn, có ai ăn canh bông lư chưa ? H́nh như chỉ có miền Trung mới ăn món này th́ phải ?
Trich Dac Trung - BL


Chu Thich : dường như miền trung chỉ gọi ngắn là bông lư chứ chẳng ai nói là hoa thiên lư. Cho nên khiến ḿnh ngờ ngợ không biết có phải hai là một. Nào nhạc nào thơ, nào truyện, ngoại trừ ca dao miền trung đều nói giàn thiên lư, hoa thiên lư ...
Đúng ra th́ hai là một đó HV ạ. Tên khoa học là Telosma cordata, thuộc họ Thiên lư (Asclepiadaceae) là loại dây leo trồng làm cảnh v́ hoa chùm nhỏ đẹp, cho ḅ trên giàn tạo bóng mát, làm thức ăn và làm thuốc.

Hoa Thiên lư (bông Lư) có mùi thơm, vị ngọt, hơi đăng đắng, có thành phần dinh dưỡng tốt cho cơ thể người. Bông Lư có thể xào hoặc nấu canh, hoặc xay làm sinh tố.

Trong hoa rất giàu chất kẽm và có chứa một chút chất an thần nhẹ. Y học dùng hoa lư để chữa giun, sa dạ con, trĩ, sa trực tràng ...

C̣n bông bí xào với nghêu cũng rất ngon HV ơi. Bông bí rợ luộc chấm nước cá kho thời mô ăn quên bỏ đũa. Và cả bông mướp nấu canh, xào, luộc ǵ cũng giống như bông lư vậy. Làm BL nhớ lại ở quê BL có người ăn lá đinh lăng sống nữa, và cũng cho là có vị thuốc chữa nhiều bịnh.



-- Edited by BaHa at 21:34, 2006-08-20

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

MA ĐỒNG KHÁNH

TrầnKiêm Đoàn

Ngày 8 tháng 3 năm 1975, sau khi lo cho gia đ́nh di tản vào Đà Nẵng, Lê Văn Măn - thầy sử địa Đồng Khánh - và tôi quyết định sẽ chở nhau vào Đà Nẵng vào sáng hôm sau.
Đêm nay là đêm cuối cùng ở Huế. Đêm từ biệt thành phố thân yêu, nơi đă trở thành một phần máu thịt của đời ḿnh.
Nếu theo tin của Cha Hoàng hồi chiều là đúng th́ Việt Nam sẽ một lần nữa bị phân chia từ Đèo Hải Vân. Tính từ đỉnh đèo Hải Vân bốn mùa mây phủ th́ Lăng Cô và Huế sẽ thuộc về “Bờ Bắc”; Nam Ô và Đà Nẵng thuộc về “Bờ Nam”!
Nếu có một người biết ngày mai họ sẽ từ giă cơi trần gian th́ dù “đời là bể khổ”, trần gian có đầy gió bụi tang thương đến đâu, họ cũng sẽ yêu cuộc đời nầy biết mấy! Cũng với tâm trạng đêm cuối cùng với Huế, chân tôi vẫn c̣n đang bước trên mảnh đất nầy mà đă nghe nỗi nhớ mơ hồ chờ chực nơi... mô.
Dù chưa mường tượng hết cái “mai tê” như thế nào trên “Bờ Bắc”, tôi vẫn cảm thấy tội t́nh cho Huế. Có sự phân ly nào mà không có nỗi xót xa riêng của nó.
Thành Phố Huế tản cư vắng hoe vắng hoắt. Ngay cả những con chó đêm đêm đi bươi đống rác cũng không c̣n lai văng. Măn và tôi từ phía Mô Ranh lững thững qua cầu Trường Tiền trong cái hoàng hôn lạnh dáng mùa Xuân của Huế. Sự vắng bóng con người đă làm cho Cầu Trường Tiền có vẻ dài ra hun hút và ḍng sông Hương mảnh dẻ dưới kia buồn thiu như nàng cung nữ hết thời trang điểm.
Huế hoàng hôn không người bỗng thành là lạ. Khung cảnh thiên nhiên trở nên thầm lặng và cô liêu như tranh vẽ của một nhà danh họa Đông Phương pha màu thiền phơ phất trong tranh. Một vài bóng người không thành dáng vẻ bước đi lầm lũi trong cảnh chạng vạng khiến cho đêm của Huế trầm mặc và thâm u hơn. Tôi có cảm tưởng như ḿnh bị nuốt chửng trong cơn đói lặng lẽ có tiếng thở dài của Huế. Mấy ai trong một đời được đi dọc Trường Tiền về ngă cầu Gia Hội sau hoàng hôn mà không gặp một ánh đèn, một gánh chè, một lời “răng rứa mô tê” ǵ của Huế?! Người Huế vẫn thường diễn đạt cảnh vắng vẻ qua h́nh ảnh "Không có con ma mô cả!"
Thuở nhỏ ở làng đi trong bóng tre lá ngà đen đậm, tôi sợ đủ thứ ma do người lớn kể lại. Ma và người lẩn quẩn bên nhau gần gũi đến độ mỗi sáng ngủ dậy tôi chạy đi t́m mấy thằng bạn trong xóm, coi thử qua một đêm dài nó c̣n sống sót hay không? Quê tôi là vùng xôi đậu – ngày Bảo vệ, đêm Việt minh – nên đêm nào không có tiếng súng của hai phe bắn nhau là dân làng có cảm tưởng như có chuyện bất thường! Rồi có những thằng bạn thân trong xóm chết v́ đạn lạc. Tôi hết sợ ma v́ thương bạn và ước ǵ gặp lại. Quê hương tôi là đất cũ của xứ Hời nên nghe đâu dưới sông ma rà từng lũ, trên đồng ma trơi từng bầy, trong vườn yêu tinh từng cặp!
Lớn lên đi học ở Huế, tôi cũng nghe chuyện ma hiện h́nh khắp nơi. Từ ngă tư Âm Hồn đến mấy cửa cổ thành như Đông Ba, Thượng Tứ, Nhà Đồ, Cửa Ngăn, Cửa Sập... Ở đâu cũng có vài bóng ma xuất hiện. Và h́nh như nghe nói ai cũng thấy, nhưng chẳng ai thấy cả. Ma Huế tô điểm cho dáng huyền thoại của Huế như những lá thư tuyệt t́nh có những ḍng nḥe nhoẹt mà gă bị phụ t́nh cứ cho là nước mắt.
Giữa cơn biến động, h́nh như ma Huế cũng rủ nhau tản cư về đâu mất dạng. Giữa cảnh dầu sôi lữa bỏng, tôi thích gặp ma vẫn c̣n hơn là không có ai để gặp . Thế nhưng giữa thành phố vắng lặng, ma cũng không c̣n. Có lẽ v́ ma Huế chỉ là cái bóng thầm lặng của con người xứ Huế nên người đi ma cũng đi theo.
Tới bến đ̣ Gia Hội, đội ghe thuyền tấp nập hai bên bờ cũng kéo nhau rời bến đi đâu không c̣n một chiếc. Sông nước đă quen với bóng đ̣ bây giờ trơ trụi giống cây mùa đông hết lá. Chúng tôi đi quanh quất rồi ngồi chờ trên bến xe Đông Ba bên dưới cầu Gia Hội mà vẫn không thấy bóng người lai văng. Tôi ước chi có tiếng người, dù là tiếng hục hặc căi nhau của mấy bà bán cá.
Hai đứa cùng đốt thuốc. Trong cái thanh vắng rờn rợn của một thành phố gần như hoang phế, khói thuốc phất phơ là dấu hiệu của hơi thở con người. Bao nhiêu ngh́n năm trước, trong cơi mịt mù của thế giới ban sơ, có lẽ con người cổ sơ khám phá ra thuốc lá trên đường đi t́m bạn. Người bạn gần gũi đầu tiên là hơi thở: Là hơi khói, hơi sương, hơi hoa, hơi lá, hơi mốc, hơi rêu... Và hơi thuốc lá là người bạn của hơi thở nồng nàn nhất mà con người có từ dạo đó. Nhưng hơi thuốc nguyên thủy cũng như t́nh yêu Adam , đó là những mảnh hạnh phúc treo trên đầu sợi tóc. Xa quá không đủ ấm mà gần quá sẽ thô đi. T́nh yêu thô đi th́ sẽ mất dần hương hoa của hạnh phúc; hơi thuốc thô đi sẽ thành thói quen vật lư hành hạ thân xác và niềm vui. Hơi thuốc của Măn và tôi không biết có đủ sức làm cho một ḥn sỏi nào đó của thành phố ấm lại không, nhưng rơ ràng đang trở thành dấu hiệu của tiếng chim gọi đàn nhanh chóng nhất. Trong một thoáng, không biết từ đâu, đă có người chèo đ̣ cặp bến. Người chèo đ̣ là một ông lăo. Ánh nước chiều tối hắt lên không đủ soi rơ râu tóc ông có bạc đến cỡ nào nhưng giọng nói c̣n âm vang sâu và ấm:
“Thiệt là quư nhơn pḥ trợ. Tui thèm thuốc đứt sợi tóc cả ngày mà không t́m ra một chỗ bán thuốc. Hai cậu có cho xin một điếu hay cho tui hút ké ít hơi cũng được.”
Tôi ch́a gói thuốc Capstan c̣n đầy ra mời ông lăo:
“Dạ, xin mời bác cứ tự nhiên dùng.”
Ông lăo cầm điếu thuốc trên tay với dáng trân trọng như tiên ông cầm xích trượng. Khi khói thuốc đă cùng với hơi người bay bay trong gió đêm lành lạnh, những người cùng cảnh ngộ thường cảm thấy gần nhau hơn. Chúng tôi tṛ chuyện và trở thành ba người bạn đồng hành với nhau một cách gần gũi, tự nhiên. Hoàn cảnh thường đóng một vai tṛ “lên men” trong t́nh cảm. Theo lời mời của ông lăo, chúng tôi quyết định ngủ đ̣ đêm cuối cùng ở Huế.
Ông Lăo – bác Đối – đă từng là vạn trưởng vạn đ̣ Trường Độ. Trong sự chất phác của một người xuất thân từ vùng quê cày sâu cuốc bẩm, bác Đối c̣n có thêm sự khôn ngoan lanh lợi đường phố và sự lịch lăm, bất chấp của giới giang hồ. Cứ nghe bác Đối nói luôn miệng câu triết lư b́nh dân, rằng “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết là sống”, tôi nói đùa với Bác:
“Biết rồi! Mệt lắm, nói măi. Nhưng thế nào mới gọi là biết hả bác? Mà thiệt t́nh bác đă biết chưa?”
Vừa chống đ̣ ra khỏi bờ, ông lăo vừa cười giọng kiêu bạc, nói một cách tự tin:
“Bà con đua nhau chạy thục mạng hết mà tui c̣n đây cũng tại v́ tui “biết”. Biết cha mẹ ḿnh nghèo, không đủ sức cho ḿnh ăn học tới nơi tới chốn nên ḿnh khổ. Dẫu Tây, Tàu, Mỹ, Nhựt có vô đây th́ ḿnh cũng đi làm cu li kiếm sống thôi. Ai có lên cầm quyền đi nữa th́ sáp dốt như tui cũng chỉ thủ phận làm tôi làm mọi lau xe xách cặp cho họ măn đời. Mẹ kiếp! Cong lưng mà chạy cực c̣n chạy theo. Tui già rồi, chết c̣n chưa sợ th́ c̣n sợ ai mà phải trốn tránh cho mệt xác hè! ”
Ông Đối kềm sát chiếc đ̣ con vào bờ hàng rào thép bao quanh một chân cầu Trường Tiền bị găy từ gần 10 năm trước. Ông lăo nói như lên giọng trần t́nh:
“Đời tui chỉ mơ được neo đ̣ nằm ngủ dưới chân cầu Trường Tiền một đêm thôi. Tui ở vạn đ̣ hơn 60 năm mà chưa có lần nào được dừng lại đây cả. Phe nào lên cầm quyền cũng sợ kẻ thù của phe kia đặt bẫy gài ḿn giật sập cầu, nên không ai được phép lảng vảng quanh đây cả. Thù chi mà thù dai dẳng ác ôn rứa không biết?! Chừ th́ khỏe rồi. Trên có trời, dưới có nước, giữa có ta... tha hồ nằm ngủ...”
Tâm trạng hiêu hiêu an hưởng một chút thanh b́nh của ông già suốt một đời lầm lũi trong chiến tranh thoáng qua rồi chững lại và chợt tắt. Bên nầy ông Đối vừa bật lửa thắp thuốc th́ phía bên kia bờ sông Hương cạnh Câu Lạc Bộ Thể Thao lửa cũng chớp lên theo tiếng nổ ầm ầm. Măn là dân sử địa nên có vẻ đă quen với chiến chinh, dù là chiến chinh trong sử sách. Măn hét lên:
“Pháo kích! Pháo kích! Nằm rạp xuống hết!”
Lăo Đối cũng như hai chúng tôi, những khái niệm mơ hồ “khôn” hay “dại” có ích ǵ cho phút nầy. Dường như chỉ c̣n “biết là sống” nên lập tức nằm bẹp xuống sàn đ̣.
Tiếng đạn pháo kích chợt xa, chợt gần, rồi ngưng hẳn.
Tiếng Măn báo động:
“Chắc chắn mục tiêu pháo kích là để đánh sập cầu Trường Tiền nhưng ‘đề lô’ đang điều chỉnh tọa độ. Ḿnh c̣n nằm đây là chết cả đám. Không khéo lại mang tiếng chết v́ đi ngủ đ̣ nữa th́ lại ô dề ốt dột. Bác Đối ơi! Dọt lẹ ra khỏi vùng nguy hiểm nầy càng nhanh càng tốt.”
Lăo Đối, miệng th́ lầm bầm “Sống chết có số. Trời kêu ai nấy dạ!” Nhưng tay chân th́ lẹ làng mở giây, chống đ̣, cố thoát ra khỏi ṿng nguy cấp, không dám ngoái đầu trở lại, có lẽ v́ sợ trời cao kêu ẩu ... trúng tên!
Tiếng pháo kích đâu đó vẫn ́ ầm như tiếng chày nện trong sương giữa thành phố nín thinh. Đêm cuối cùng ở Huế. Dù Huế đăvắng bóng con người, đă nằm im thin thít phía Đông Trường Sơn như cô bé ngoan hiền núp sau áo mẹ mà thù hận từ đâu vẫn luông tuồng kéo tới.
Bác Đối neo thuyền ven bờ Cồn Hến. Thiên nhiên chỉ chực chờ con người rút lui khỏi mặt đất là vùng lên chiếm quyền ngự trị. Sông Hương, Đập Đá, Cồn Hến Đông Ba... không c̣n tiếng người xao động. Dù chỉ là tiếng guốc mộc đă ṃn, kéo lê lẹc xẹc trên đường; tiếng sanh lóc cóc rao phở, tiếng rao chè đậu xanh đậu váng trong đêm khuya cũng không c̣n. Thay vào đó, tiếng vọng của vũ trụ, tiếng muôn loài sinh vật, tiếng gió, tiếng sóng, tiếng cây xào xạc... dấy lên rộn ràng trong bóng tối. Tôi có cảm tưởng như ḿnh bị nhốt giữa ḷng thuyền để chờ ngày khai thiên lập địa lần thứ hai. Cảm giác êm đềm ngủ đ̣ trên gịng sông không c̣n nữa. Tưởng đêm không người im vắng sẽ ngủ ngon, ai ngờ cả ba chúng tôi đều thức trắng để đối diện với một thứ uy vũ vô h́nh nhưng mănh liệt pha một chút huyền bí gần như đe dọa của Huế về đêm.
Gần sáng, bác Đối tâm sự:
“Sáng mai, hai cậu đi về Nam c̣n tôi ở lại. Hai cậu cũng là những đứa con Nguồn Bồ như tôi thôi. Suốt 15 năm qua, tôi chứng kiến từng đoàn những đứa con Nguồn Dinh ra đi và những đứa con Nguồn Bồ ở lại. Không khéo rồi đây những đứa con Nguồn Bồ sẽ kéo về đây cầm cương, thúc ngựa điều khiển Huế cho mà coi!”
Nam và tôi vẫn chưa hiểu rơ khái niệm “Nguồn Dinh” và “Nguồn Bồ” của ông Lăo có nghĩa như thế nào. Lăo Đối giải thích:
- Con Nguồn Dinh cá ḱnh cá chép
Con Nguồn Bồ con tép con cua
Con Vua th́ lại làm vua
Con săi ở chùa th́ quét lá đa
Bao giờ đất nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa...!
Theo khái niệm của Lăo Đối th́ “con Nguồn Dinh” là những người Huế “cột cờ”, sinh ra và lớn lên tại thành phố Huế. C̣n “con Nguồn Bồ” là những người gốc Huế nhưng sinh đẻ ở nơi khác, xứ khác ví như ḍng sông Bồ từ Lại Bằng, Phú Ốc chảy quanh co bao bọc phía Đông Bắc thành phố Huế mà vẫn không chảy vào ḷng xứ Huế.
Và sáng hôm đó, ba đứa con Nguồn Bồ của Huế bịn rịn chia tay nhau trên bến sông Hương. Kẻ ở lại chẳng mong ǵ ngày đi và kẻ ra đi cũng chẳng hy vọng có ngày trở lại... Khi Huế sắp mất trong đời là khi Huế hiện về trong ḷng chan chứa nhất. Tôi muốn thu hết h́nh ảnh Huế lần cuối nhưng Huế bỗng vỡ tan và chẳng c̣n chi cả. Ḷng tôi, trong phút chia tay với Huế, chơi vơi như ḍng nước có những mảnh Huế là bóng trăng tan.
oOo

Ngày 26 tháng 3 năm 1975, quân đội miền Bắc làm chủ t́nh h́nh từ phía Nam đèo Hải Vân trở ra. Huế hoàn toàn trở thành “Bờ Bắc”.
Không lâu sau đó, “Bờ Bắc” lan rộng vào Đà Nẵng và các tỉnh phía Nam trước khi Sài G̣n thất thủ vào ngày 30 tháng 4.
Tôi trở lại Huế khi thành phố chỉ mới có lơ thơ những gia đ́nh hồi cư lẻ tẻ. Vẻ hoang vắng và xơ xác chạy dài theo dăy đường phố vắng vẻ với những căn nhà lầu, nhà trệt đóng cửa im ĺm từ cầu Mới đến cầu Gia Hội. Những con đường xứ Huế bỗng lạ đi với sự hiện diện của những người bộ đội. H́nh như mắt tôi chưa quen với màu xanh rừng của những chiếc mủ cối, nón tai bèo, bộ quân phục rộng thùng th́nh và đôi dép lốp xe của một thời xa xưa hiện về. Họ trông có vẻ “lính làng” hơn là “lính phố”. Có dịp bắt chuyện với một vài người lính và cán bộ, tôi vẫn không cảm thấy gần gũi hơn. Cách nói và thế nói của họ nghe có vẻ ít thân t́nh v́ không phát xuất từ cái “tôi” riêng tư mà hầu hết từ cái “ta” tập thể.
Tôi t́m về trường cũ, Đại học Sư phạm Huế, gặp lại nhiều người bạn học cùng khóa vắng bóng lâu ngày. Một số thoát ly lên núi mới trở về, một số chuyển nghề, một số c̣n ở lại với nghề cũ như tôi. Trong những ngày xôn xao trong cảnh tranh tối tranh sáng như thế nầy, tôi nghe người ta sôi nổi nói về ủy ban nầy, lực lượng kia, cơ sở nọ nhiều hơn là nói chuyện sách đèn. Trong một vận hội và một số phận mới, h́nh như rất hiếm người nghĩ đến chuyện trở về đứng trên bục giảng.


__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: HUE :Đất Ca Dao


MA DONG KHANH (Tiep )
Sau mấy ngày “chiến đấu” mướt mồ hôi để giành giựt một số sách quư trở lại cho thư viện Đại Học Huế từ tay của một số bà con ở dưới đ̣ ven sông Hương ôm sách thay cho củi đốt nấu ăn đang khan hiếm, tôi nhận đi dạy học lại. Học sinh tấp nập hồi cư mà thầy cô các trường ở Huế vẫn c̣n cao chạy xa bay đâu hết. Buổi họp hội đồng giáo sư “Bắc Nam” đầu tiên sau ngày hồi cư do anh Dương Văn Lộc, vừa là cựu sĩ quan miền Nam biệt phái về trường dạy học trước 75, vừa được coi là “quần chúng tốt của cách mạng” điều khiển. Một nửa thầy cô giáo hiện diện trong buổi họp là giáo sư miền Bắc gọi là “giáo viên chi viện”. Anh Lộc có vẻ ngượng nghịu với danh xưng “đồng chí” thay cho anh chị hay quư vị như thường lệ. Người ăn nói lưu loát và phát biểu mạnh dạn nhất trong buổi họp nầy là anh Lê Huy Linh, một “giáo viên chi viện” từ HàNội với một giọng Bắc sắc và chuẩn như xướng ngôn viên đài phát thanh. Linh cũng khoảng cùng tuổi với tôi, thuộc gịng dơi Lê Huy tiếng tăm ở Huế nhưng lại ra đời và lớn lên ở Hà Nội và nói theo danh từ của Lăo Đối th́ đối với Huế, Linh cũng là “đứa con Nguồn Bồ” như tôi thôi. Tôi nhắc đến Lê Huy Linh v́ hơn 10 năm sau, Linh trở thành thầy hiệu trưởng thứ hai của trường Đồng Khánh.
Một đứa con Nguồn Bồ khác của Huế là Hà Thúc Định. Định cũng trạc tuổi với tôi, thuộc gịng dơi Hà Thúc thế gia vọng tộc của Huế. Định cũng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nói giọng Bắc dẽo quẹo như chè đậu váng cáng bột lọc. Định hát hay, đàn giỏi, chơi bóng tṛn xuất sắc với cú sút góc tung lưới rất điệu nghệ nên thường đứng cánh phải (anh Châu Trọng Ngô đứng cánh trái) trong đội banh Đồng Khánh. Tôi nhắc đến Định v́ anh là một hiệu trưởng “con trai” đầu tiên của lịch sử 85 năm trường Đồng Khánh.
Tôi chơi với cả Linh và Định nhưng gần gũi với Định hơn v́ bản chất nghệ sĩ và tính lăng tử của chàng ta. Ngay sau khi tôi và Hồ Hữu Hạnh, hai gă thầy giáo miền Nam duy nhất bị đuổi ra khỏi trường Đồng Khánh trong đợt “biên chế” cuối cùng của ty giáo dục B́nh Trị Thiên năm 1977, th́ mối giao t́nh phóng khoáng của chúng tôi và Định vẫn không có ǵ thay đổi, mặc dầu trong buổi giao thời khó khăn, nhiều đồng nghiệp, nhất là đồng nghiệp miền Nam, đă tạm lánh xa chúng tôi v́ sợ họa lây. Định dạy toán nhưng lại nói chuyện văn chương giàu suy tưởng. Tôi c̣n nhớ là Định thích thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Bắc Sơn và tŕnh diễn trên sân khấu bài “Quê Em miền Trung Du...” rất đạt.
Sau khi cô “dâu Bắc” Nguyễn Thị Ngọc Bích của Huế làm hiệu trưởng Đồng Khánh, theo chồng về Kinh Bắc nhận chức to hơn th́ Hà Thúc Định lên làm hiệu trưởng Đồng Khánh. Tính từ thời ông Tây bà Đầm c̣n xi lô, xi la ở trường Đồng Khánh th́ đây là thầy giáo đầu tiên lên làm hiệu trưởng thay cho các cô giáo có truyền thống lâu đời ở chức vụ nầy.
Trong một bầu không khí hết sức đặc biệt của miền Nam sau năm 75, Định được xem là một người có phong cách rất thích hợp được hầu hết các giáo sư trong trường quư mến. Với lối ăn nói nhỏ nhẹ và cách cư xử khéo léo, tế nhị, Định đă kéo tập thể các thầy giáo và cô giáo Bắc Nam gần lại với nhau (ít nhất th́ cũng trong môi trường vật lư!). Định thường dùng danh xưng anh, chị thay cho tiếng “đồng chí” lạnh ḿnh và xa lạ đối với dân miền Nam thời bấy giờ.
Sao 10 năm xa Huế, năm 1992 tôi về lại Huế trong mùa Tết. Tôi ghé đến trường Đồng Khánh thăm Định. Định và gia đ́nh vẫn ở trong căn nhà hiệu trưởng bên phải cửa vào của trường Đồng Khánh. Điều thú vị là hai đứa đều không hẹn mà gặp trong hai chiếc áo vét nỉ “Made in Taiwan” cùng màu, cùng cỡ, cùng một kiểu như nhau. Định tâm sự: “Thời chiến tranh, ḿnh ở trong t́nh thế vào sinh ra tử cũng đă nhiều, nhưng vẫn thản nhiên bước tới, không hề có cái cảm giác là lạ như ở trong ngôi trường nầy, nhất là ban đêm...” Tôi không hỏi thêm “là lạ” là như thế nào và hai đứa chở nhau qua Thành Nội uống cà phê, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất cho đến khi chia tay. Sau nầy, khi nghe tin Định thọ nạn ngay phía trước cổng trường Đồng Khánh, tôi chợt liên tưởng đến một khung cảnh Đồng Khánh về đêm: Vắng lặng, thâm u, với những mảnh đèn điện lắt lay v́ lọc qua những tàng cây xanh đong đưa với gió núi Trường Sơn thổi về. Có chăng những mảnh Liêu Trai trong mắt nh́n hay trong ư nghĩ đă làm Định mang cảm giác “là lạ” với ngôi trường có rất nhiều “con yêu bánh nậm” nầy?!
Hai năm sau kể từ lần cuối tôi gặp Định, tính cũng khoảng 10 năm từ ngày lên làm hiệu phó và hiệu trưởng, Định bị tai nạn xe Honda khoảng 8 giờ tối và chết trong bệnh viện. Lê Huy Linh lên làm hiệu trưởng Đồng Khánh thay cho Định và cũng non 10 năm sau kể từ khi giữ chức hiệu phó và hiệu trưởng, bị tai nạn xe Honda khoảng 8 giờ tối và chết trong bệnh viện.
Vài chi tiết trùng hợp ngẫu nhiên giữa hai cái chết của hai vị hiệu trưởng Nam giới đầu tiên trong 85 năm lịch sử trường Đồng Khánh đă làm cho những người thường quan ngại đến chuyện thần linh ma quái phải vất vả suy diễn và kháo nhau về sự “huyền bí” trong ngôi trường “Âm thịnh Dương suy” nầy. Thời c̣n dạy học ở trường, có những lần họp hành về muộn, nghe những nhân viên lâu năm của trường như anh Hường, anh Phẩm, chị Cúc, chị Mơ... kể “chuyện ma Đồng Khánh”, tuy tôi cố không tin nhưng vẫn có một cảm giác rờn rợn khi một ḿnh nh́n quanh những bức tường mầu hồng chuyển thành màu tím sau màn mưa. Dưới tàng cây xanh trở gió và ánh đèn vàng hắt bóng tạo ra một ảo giác như có những người con gái áo trắng xỏa tóc nói chuyện ŕ rầm với bóng đêm từ trong các pḥng học cửa khép kín.
Anh Hường, nhân viên phụ trách âm thanh và ánh sáng của trường Đồng Khánh lại giàu tính hoạt kê hơn khi anh cho rằng những cô, thầy độc thân lâu ngày như cô Lưu Ty, cô Kim Cúc, cô Minh Tuyết, cô Huy Hoàng, thầy Châu Phan, thầy Đ́nh Niên, thầy Hữu Hạnh... đều “có tà”. Có tà, nghĩa là được hay bị những người ở thế giới vô h́nh yêu thương. Muốn “xả tà” th́ phải có chồng hay có vợ. Tôi hân hạnh dự lễ “xả tà” của người bạn là thầy Hữu Hạnh không lâu sau đợt “kiểm tà” của anh Hường... C̣n những thầy cô khác, đă 30 năm rồi, kẻ c̣n người mất, không rơ ai đă có cơ hội “xả tà” ở thế giới nầy hay thế giới bên tê!
Huế là thành phố cổ duy nhất ở Việt Nam có đến hàng trăm ngôi chùa cổ. Cái giao t́nh của quá khứ và vị lai tuy không có h́nh thù rơ rệt nhưng vẫn trôi chảy luân lưu bằng cảm nhận qua giọng nói và điệu sống trầm và lặng của Huế. Chỉ cần ra khỏi thành phố Huế chừng mười cây số là đă nghe giọng nói khác, lối sống khác từ làng nầy qua làng kia nhưng nét nổi bật vẫn là sự ngự trị của đ́nh chùa, am miếu. Dù là đạo Phật, đạo Chúa, “đạo” thờ cúng Ông Bà hay là một h́nh thức sùng bái tâm linh nào khác ở Huế th́ cũng đều có vẻ “thật” và sâu hơn các nơi khác có lẽ v́ Huế thường xuyên nhận chịu những tai trời ách nước. Sự bất hạnh là động cơ tâm lư mạnh nhất mang thần linh xuống cơi trần trà trộn bàng bạc với con người. Hai trường Đồng Khánh và Quốc Học “nổi tiếng” nhiều ma: Tinh le, tinh đèo đèo, đồ yêu, đồ quỷû, yêu bánh nậm, ma t́nh, ma hận ... của Huế đều mang đậm tính người và có vẻ... lăng mạn rất nên thơ! Ma Huế “hiền” v́ không mang bản chất hiếu sát như ma cà rồng, thích trêu ngươi như ma trơi hoặc mang tâm địa tối tăm như ma xó, ma bùn.
Ma Huế trẻ nhất trong giới ma quỷ địa cầu, v́ đa số những con ma được liệt vào hàng linh hiển nhất thường thuộc lứa tuổi vị thành niên hoặc ít nhất th́ cũng là độc thân chưa bị "đọa" vào đường t́nh sử ở trần gian. Có lẽ v́ thế mà điệu hát chầu văn để gọi hồn ở Huế cũng giật gân như điệu Rock’n Roll và điệu nhảy múa lên đồng cũng mang vẻ rậm rật, bứt phá rất trẻ trung của điệu Disco. Ma Huế cũng có giai cấp xă hội như người sống: Ma quư phái, ma b́nh dân và ma đồng bóng. Ma “quư phái” xuất thân là những cô gái gịng dơi “con nhà”. Tất nhiên là phải vừa đẹp, vừa lăng mạn, vừa chưa chồng và cũng chỉ xuất hiện rất chọn lọc tại những nơi xa mùi tục lụy như trường Đồng Khánh, Thành Nội, Jeanne d’Arc... Ma b́nh dân dễ tính hơn nên xuất hiện một cách xà bát tại bất cứ nơi nào có âm binh tùy thích. Ma chuyên nghiệp th́ chỉ xuất hiện tại những am đền đồng bóng. Ma đồng bóng nổi tiếng như bà chúa Thiên Y A Na, cô Ba Âm Hồn, cô Tư Mả Trạng, cô Chín Thượng Ngàn...và về phía ma nam là những ông “Trạng” vốn là những thai nhi và những cậu Tài, cậu Quư khi nhập xác đồng c̣n nói “chớt”!
Ma Đồng Khánh vẫn mặc áo dài tha thướt trong đêm khuya, vẫn làm dáng, xỏa tóc khiêu vũ giữa sương trăng. Nếu cùng lắm th́ cũng tới mức khóc nỉ non trong đêm vắng hay hát khúc Nam B́nh đầy thương cảm như “chuyện ma” của người đời kể lại... Bởi vậy, tôi không tin ma Đồng Khánh “ác nhơn” tới mức là thủ phạm lôi kéo hai chàng hiệu trưởng lưu linh đầu tiên của trường Đồng Khánh về cơi “bên tê” với ḿnh(?!)
Có người lại đi xa hơn cho rằng, sợ những đứa con “Nguồn Bồ” của Huế không đủ oai lực để thắng những tà lực yêu quái đang ẩn nấp trong bóng tối trăm năm của trường Đồng Khánh - Quốc Học nên cần có một chàng trai Huế toàn ṛn – nghĩa làø phải sinh đẻ tại Huế như kiểu muốn làm tổng thống Mỹ th́ phải sinh đẻ tại Mỹ – lên làm hiệu trưởng th́ mới đủ nội lực thâm hậu đển chiến thắng “nữ âm binh”! Hoặc muốn cho an toàn hơn th́ không ǵ bằng mời nữ nhân làm hiệu trưởng để cho “âm lực trị âm binh” th́ cảnh thái b́nh thịnh trị trên sân trường phượng hồng Đồng Khánh sẽ êm ru như "gió lộng đôi tà" trong non một thế kỷ đă đi qua.
Cũng có thêm giả thuyết h́nh thành bởi thế hệ Đồng Khánh “60” cho rằng, đă gần 100 năm sau, cái tên Đồng Khánh vốn gắn liền với ngôi trường áo dài tím-trắng nhiều hơn là mang biểu tượng cho một vị vua triều Nguyễn. Danh xưng Đồng Khánh đă trở thành một mỹ danh của Huế, một thế giới tươi mát với những pḥng học đầy Con Yêu Bánh Nậm. Đồng Khánh cũng là niềm tự hào của học tṛ Huế và giới sách đèn bút nghiên trong cả nước, thế th́ tại sao phải thay đổi nó đi thành “Trưng Trắc” như thời sau 75 và “Hai Bà Trưng” thời hiện tại. Sự khai sinh cái mới chỉ v́ vụ h́nh thức và định kiến, bất chấp nếp cũ và nhân tâm sẽ làm cho con người buồn ḷng và thần linh nổi giận. Kiểu nổi giận của thần linh ở Huế là nếu nhẹ th́ “ngài quở” mà nặng th́ “thần vật chết tươi...”! Khi tâm lư suy diễn trở thành một phần đức tin th́ lư luận sẽ trở thành phù phiếm. Với t́nh cảm thuần túy, họ chỉ muốn cái tên trường Đồng Khánh được khôi phục một cách tự nhiên như mua vôi chợ Quán, chợ Cầu; như châu về Hiệp phố. Ngày nào cái tên nguyên thủy của trường xưa không trở lại th́ ngày đó vẫn chưa yên.
Ham thay đổi như người Mỹ, khoái bắn súng như cao bồi Texas, đại ngôn và thích dùng danh từ đao to búa lớn quảng cáo như giới chính trị và kinh doanh tài nguyên ở California thế mà khi chiếm được đất đai từ tay người Pháp, người Mễ Tây Cơ, người Da Đỏ rồi, họ vẫn để nguyên tên những thành phố, ḍng sông, rặng núi, di tích, trường học mang tên Tâây, tên Mễ, tên người Da Đỏ vốn có từ muôn năm cũ, có khi lại là tên của kẻ cựu thù. Đi từ thành phố Baton Rouge, Del Paso, Los Angeles, San Francisco; qua những vùng Cheyennes, Apache, Chippewas người ta sẽ thấy ngay điều đó. Chính nội dung và lịch sử làm vinh danh cho cái tên chứ không phải điều ngược lại! Bởi vậy, trả lại tên Đồng Khánh cho ngôi trường xưa sẽ là một việc làm rất có ư nghĩa mang đậm tính văn hóa, phát huy tinh thần giáo dục và kết hợp hài ḥa về tâm lư.
Khái niệm về ma có khắp nơi, nhưng Ma Huế hay ma Đồng Khánh là sản phẩm của tâm lư ẩn ức lâu dài từ nếp sống đều đặn trong một khung cảnh đượm màu lăng mạn. Đó là một phản ứng tâm linh giữa ước mơ và hiện thực. Ma, quỷ, yêu, tinh cũng là phương tiện du lịch đầy viễn mơ của tâm lư ức chế, là cái bóng ảo ảnh của con người. Ma Đồng Khánh có khi cũng chỉ là cái bóng lưu li của cô nữ sinh Đồng Khánh. Cái bóng đó sẽ thành nỗi ám ảnh dằng dặc để tùy theo sự suy diễn hay tưởng tượng phong phú của từng người mà phóng chiếu thành “ma”. Thầy hiệu trưởng tương lai của trường Đồng Khánh (nếu có) hẳn sẽ nơm nớp tự hỏi ma Đồng Khánh là chuyện đùa hay thật ?! Nếu đùa th́ sao lại có người thấy ma, nếu thật th́ ma đâu không thấy; nếu thấy th́ không c̣n là ma, nếu ma th́ không c̣n thấy được? Những câu hỏi “xàng quay” như thế sẽ làm cho ḍng suy tưởng của con người sôi động hơn, v́ ít ra, th́ dù có một thực tế ảo để tựa vẫn c̣n hơn chơi vơi hoài giữa khoảng hư không. Ma xuất hiện như những đốm vui giữa một Huế buồn chi lạ.
trich : Dac Trung

__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

Mẹ ca dao
Tuỳ bút của Trần Hữu Lục

Mẹ tôi quê ở Cồn, cù lao trồng bắp giữa ḍng sông Hương trong vắt . Mùa hạ, nước mặn biển Đông tràn qua cửa Thuận An lên tới Cồn . . . có lẽ vùng sông nước có khi "trong" lúc "lợ" nên đă "vận" vào cuộc đời của mẹ tôi ?

Hồi nhỏ, tôi vẫn nghe bà con gọi đùa mẹ tôi là "Bà-nói vần" . Mẹ tôi không có nhiều chữ để có thể làm thơ nhưng mẹ thuộc ca dao nằm ḷng và hay xen vào giữa câu chuyện một hai câu ca dao ấy . Tôi gọi thầm, mà chẳng dám nói cho mẹ biết, rằng mẹ là "Mẹ-ca-dao" . Những lúc nghe ai đọc một câu ca dao nào đó, tôi bồi hồi nhớ mẹ tôi . Dường như mẹ tôi đă thuộc nhiều câu ca dao man mác buồn .

Mẹ tôi lấy chồng năm 18 tuổi . Đám cưới mẹ tôi phải rước dâu bằng thuyền . Mẹ tôi rời Cồn vào đất liền, mang theo những câu hát ru buồn . Không biết mẹ tôi có trắc trở chi chuyện t́nh duyên trước khi lấy cha tôi, mà những câu hát bên "tao nôi" nghe thật da diết:

Hai tay cầm bốn tao nôi,
Tao thẳng, tao dài, tao nhớ tao thương


Có lần, chị tôi lựa lời hỏi mẹ có long đong, trắc trở chi về đường t́nh duyên không, mẹ tôi chỉ nói bóng gió:

Sen xa hồ sen khô hồ cạn
Lựu xa đào lựu ngă đào nghiêng
Em xa anh như bến xa thuyền
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi ?


Đă vậy mà cha tôi lại ít khi ở nhà . Thời loạn lạc, cha tôi đi biền biệt, mẹ tôi tảo tần sớm tối nuôi con . Cả vùng quê nghèo chạy dài theo mấy nhánh sông đều vậy . Những ngày tháng ấy, tôi lớn lên trong t́nh yêu thương của mẹ . Và một đêm khuya thanh vắng, trăng soi vằng vặc, mẹ tôi ngồi đợi cha về . Mẹ nói "Thôi con ngủ đi", rồi mẹ bồng ru tôi:

Chim bay về núi về non
Cá kia về vực, ai c̣n trông ai ?


Sau này lớn lên, tôi mới hiểu được nỗi ḷng của mẹ tôi . Nỗi ḷng ấy có nỗi buồn của ca dao, những câu nói vần mà mẹ tôi đă học ở người khác suốt th́ con gái . Những câu ḥ mái nhị, êm ả vang lên trên một vùng sông Hương - Cồn . Nỗi buồn ca dao ấy đă "vận" vào đời mẹ, chảy vào máu thịt tạo thành giọng ru tha thiết vời vợi .

Anh đi đằng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non chung một mối t́nh
Nhớ ai ai có nhớ ḿnh hay chăng ?


Gần như là một cách chọn lựa cuộc sống của mẹ tôi nữa:

Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc
Địa sanh thảo hà thảo vô căn


(Mà BN xin tạm dịch:

Thuyền em trôi giạt giữa gịng
Biết ai gửi phận trao ḷng xe duyên)


Mẹ tôi rất thương yêu con cái và hiếu thảo với ông bà ngoại . Mẹ tôi thường mặc chiếc áo dài màu lam dẫn con về Cồn thăm nhà . Quê ngoại ngày càng nghèo hơn . Và sau mỗi chuyến về thăm, mẹ tôi lại nói vần, vừa để căn dặn anh em tôi, vừa như giải bày tâm sự:

Cầu mô cao bằng cầu danh vọng
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con
Ví dầu nước chảy đá ṃn
Có xa nhau ngàn dặm cũng c̣n nhớ thương


Mấy năm sau, cha tôi trở về. Tháng sau th́ Tây càn . Mẹ tôi gánh tôi và anh tôi trên đôi thúng chạy loạn . Hết trận càn, mẹ tôi lại gánh anh em tôi về mà không than vản một lời . Cũng vào giữa năm này, tôi bị phỏng nặng ở khuỷu tay trái v́ mải mê theo tụi bạn đi nhặt "chiến lợi phẩm" sau một trận du kích chống càn, tôi bị rơi xuống một hầm trú đang c̣n cháy ngấm . Hồi ấy, chẳng có thuốc tây và đang có đánh nhau, vết bỏng của tôi làm mủ, về sau lở loét thành ḍi . Mẹ tôi t́m lá cây làm thuốc, rồi mặc vội chiếc áo dài nối màu nâu gánh tôi trên thúng chạy lên nhà thương huyện . Tôi thấy mẹ tôi lấy vạt áo chấm mắt và khóc . Tôi ân hận và không thể nào quên được h́nh ảnh của mẹ tôi lúc đó . Mẹ chỉ khóc mà không rầy la tôi một lời . Trái tim của mẹ quá hồn hậu . Tấm ḷng của mẹ rộng lượng, yêu thương biết dường nào . . . Mẹ đă gánh con qua thời ly loạn .

Khi lớn lên mới hiểu hết hai chữ "sinh thành", tôi lại đi theo con đường của mẹ tôi, ḥa ḿnh vào những lời ru ngàn đời . Và tôi chợt hiểu ra


Trèo non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ già


Chẳng phải đợi đến lúc mẹ nhắn nhủ, tôi càng thương nhớ những câu ca dao vời vợi:

Có con phải khổ v́ con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng


Những lúc tôi vấp ngă, mẹ đă vực tôi dậy . Mẹ an ủi: "Mẹ nghèo, chỉ có lời khuyên thôi ". Rồi mẹ tôi nói thơ Lục Vân Tiên, rằng: [purple]"Trai thời trung hiếu làm đầu . . . ".


Năm mẹ tôi mất, tôi đă không về kịp . Tôi tự trách ḿnh là c̣n nợ mẹ cả cuộc đời . Bởi mẹ đă cho con cuộc sống, và mẹ c̣n dạy con phải sống như thế nào ? Tôi làm thơ khóc mẹ . Những câu thơ muộn màng, chẳng được sâu sắc đằm thắm và ư nhị như ca dao, nhưng đây là tấm ḷng thổn thức của người con

[purple]Lần lửa đă mấy mùa Xuân
Bóng mẹ sớm chiều quạnh quẽ
Có nỗi nhớ nào hơn xa mẹ
Đời con vằng vặc Mẹ vầng trăng . . .


Bây giờ, mẹ tôi không c̣n nữa . Ḷng thương yêu tŕu mến của mẹ vẫn như ngọn lửa soi sáng mọi bước chân con . . .

Trần Hữu Lục
Tập San "Áo Dài Huế" (Nhớ Huế - tập 3)
Nhà Xuất Bản Trẻ 1999



__________________


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

MƯA XUÂN XỨ HUẾ
Điệp Anh Đào


"Huế là thơ
Huế là mơ ..."
Ai đến Huế có lẽ không bao ǵơ quên được nét mộng mơ, hiền dịu của Huế - một mảnh đất Thần Kinh đă đi sâu vào lịch sử, thơ ca và nhạc họa . Huế đẹp. Huế thơ . Huế mộng mơ, muôn h́nh muôn vẻ . Nhưng có lẽ cái đọng lại những ấn tượng sâu sắc trong ḷng mọi người đấy là mưa Huế, đặc biệt là mưa Xuân .

Mưa Huế vào mùa Xuân không tầm tă như tháng chín tháng mười . Mưa chỉ lâm thâm nhưng kéo dài từ ngày này sang ngày khác . Người ta truyền rằng: Ngày xưa Huế chịu nhiều đau thương mất mát nên mỗi mùa Xuân đến Huế buồn Huế "khóc" . Tôi không nghĩ rứa! Mùa Xuân là mùa chuyển ḿnh của đất trời đối với vạn vật . Muôn hoa đua nở . Muôn vật nhởn nhơ nô giỡn . Con người cảm thấy ḷng ḿnh tràn ngập niềm vui . Thế th́ tại răng Huế buồn đến độ phải "khóc" hàng ngày hàng tháng ? Một thi sĩ cũng đă từng thắc mắc và hỏi Huế:
"Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất trắng trời Thừa Thiên ?"

Mưa Xuân xứ Huế thật đậm đà nét đáng yêu . Nếu đến Huế vào mùa này du khách sẽ thấy ḷng ḿnh tràn ngập nỗi nhớ nhung da diết . Huế vốn đă trầm buồn, cổ kính . Mưa lại kéo dài càng làm Huế thêm kỳ bí . Ngày Xuân ra đường chộ toàn áo mưa với ô dù rực rỡ cảm một góc đường .

Mưa Huế thật dịu dàng như nước mắt thiếu nữ . Cho nên dẫu mưa kéo dài âm ỉ, nhưng ai cũng mến cũng yêu . Người Huế nào mà không một lần đi dưới những cơn mưa ấy; đưa tay hứng lấy những giọt mưa ấy th́ quả chưa thật sự là dân Huế . Bởi người Huế xem mưa như bạn v́ mưa quá đỗi thân quen với họ . Mưa Huế và người Huế gắn bó tri âm tri kỷ với nhau, chẳng khác nào Bá Nha - Tử Kỳ . Họ sinh ra trong mưa, làm việc trong mưa và sống trong mưa .

Mỗi độ xuân về, mưa Huế lại đến . Người Huế có thói quen là ngồi trước hiên nhà nh́n ra sông Hương núi Ngự . Trời mù u . Mưa như dát bạc, lấp lánh rơi xuống ḍng sông . Ḍng Hương Giang như có hàng ngàn viên kim cương tỏa sáng, lấp lánh ánh vàng . Núi Ngự sông Hương như một cặp trai gái tắm ḿnh trong mưa thật t́nh tứ .

Mùa Xuân, xứ Huế bao giờ cũng mưa . Không ít th́ nhiều . Trời mưa . Khí hậu lành lạnh - Đó chính là nét đặc thù hết sức duyên dáng của mảnh đất Cố Đô . V́ thế, nếu bạn đến Huế xin hăy mang theo tấm áo mưa "pḥng thủ" kẻo lại bị mưa Huế làm "trắng ḿnh trắng mẩy" th́ sẽ nhớ đến ǵa!

Suu Tam

__________________
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard