Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Sài G̣n của tôi


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 27
Date:
Sài G̣n của tôi


Sài G̣n của tôi
Nguyễn Kim B́nh


Tôi thương yêu Sài g̣n!? Chắc chắn là như thế. Trong vô số những bài hát, bài viết, bài thơ trong nhiều năm qua, đặc biệt là từ sau năm 1975, nhiều tác giả đă bày tỏ sự thương yêu Sài G̣n qua nhiều câu chuyện, nhiều kỷ niệm vui buồn. Gần đây, tôi có đọc bài viết của một nữ tác giả, sinh ra và lớn lên ở miền Bắc sau năm 75. Cô theo Bố Mẹ vào Sài G̣n sinh sống khi đă vào lứa tuổi gần đôi mươi, và chỉ ở một thời gian không lâu. Thế mà tác giả cũng đă gắn bó, thương nhớ Sài G̣n khi phải xa xứ, nào kém một người miền Nam, từng sống nhiều năm tại Sài G̣n như tôi. Sài G̣n có mănh lực làm si mê bao ḷng người.

Chắc ít có người Việt tị nạn nào mà lại không một lần nghe đến bài hát “Sài G̣n, niềm nhớ không tên”1. Tôi th́ biết đến cái “niềm nhớ không tên” (hay có rất nhiều tên) này từ trước năm 75, lúc c̣n chưa phải sống xa cách hàng ngàn dặm như bây giờ.
Đó là những năm 1974-75. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được trưng tập vào quân đội. Khoảng gần giữa năm 1974, tôi rời Trường Quân Y ở Sài G̣n ra đơn vị, về phục vụ tại một Bệnh xá Dân Quân Y, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Vĩnh Long th́ cũng không xa Sài G̣n là mấy. Tôi lại được anh Bác sĩ trưởng Bệnh xá thật tốt bụng (giờ vẫn c̣n ở Sài G̣n), ưu ái và thông cảm lứa tuổi chưa biết lo (!), nên rất dễ dăi trong chuyện đi phép của tôi (đúng ra anh chỉ “ngó lơ”, chứ chẳng cấp chỉ huy nào cho phép kiểu này). Mỗi thứ Ba, tôi mới từ Sài G̣n ṃ xuống Bệnh xá mà rồi sáng thứ Sáu, tôi đă nôn nao (“Nếu chiều không ḥ hẹn, đâu thấy ḷng nôn nao”2), thay vào bộ quần áo dân sự, nhảy lên xe đ̣ về lại Sài G̣n.

Ấy thế mà tôi cứ nhớ Sài G̣n. Nhớ da diết, nhớ khoắc khoải, nhớ cuồng điên khi phải xuống lại Bệnh xá. Thân tôi ở Vĩnh Long mà hồn th́ vương vất đâu đó ở quán La Pagode, rạp mini Rex, rạp Eden, chè Hiển Khánh, cafeteria Rex, cơm tấm Trần Quư Cáp, ḅ kho Thanh Bạch, hay trước các xe bột xào, ḅ viên, hủ tiếu ḿ, ở ngả Sáu, ngả Bảy (ngả Năm tôi không dám đến). Tôi nhớ mong Sài G̣n v́ tôi cứ bị “réo gọi” bởi bao bạn bè trai, gái. Bởi muôn vàn kỷ niệm với các con đường, góc phố, hàng cây, tiệm kem, quán cóc. Nơi đó, c̣n có người yêu “bé bỏng” của tôi đang sống (nàng đang học đại học, chẳng bé bỏng mấy đâu). Ngày đó, tôi nghĩ không bao giờ tôi có thể sống xa Sài G̣n lâu hơn 1 tuần.

“Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược con cá vượt lội xuôi
Anh với em xa cách ngậm ngùi
Mong cho gặp mặt, xác vùi cũng ưng”

Thế mà, chẳng bao lâu sau đó, hoàn cảnh đau thương của miền Nam đă khiến tôi phải sống xa Sài G̣n. Trước, xa vài năm. Đêm đêm, từ trại cải tạo bên b́a rừng, trông về hướng thành phố xa xa, c̣n thấy một vầng sáng đèn ở chân trời. Sau, xa đến cả chục năm, cách biệt mịt mùng hàng chục ngàn cây số.

Nhưng rồi đến một lúc, sau khi đă ổn định cuộc sống, sau khi đă hết ḷng hết sức v́ các ước vọng chung của người tị nạn, giống như nhiều người Việt hải ngoại, tôi nghĩ, Sài G̣n, Việt Nam nào phải của riêng ai. Dù ai đó có đang cai trị đất nước này, có làm tôi bất b́nh nhiều chuyện, đă làm tôi phải ĺa xa nơi đó một thời, th́ nơi đó cũng măi vẫn là thành phố, là quê hương của tôi. Thế nên sau hơn 16 năm xa xứ, tôi lại trở về.

Tôi ra đi khỏi Sài G̣n vào đầu thập niên 1980, lúc thành phố ở vào thời kỳ thê thảm, tệ hại nhất về mọi mặt. Tôi cũng đă từng sống vài năm gian khổ tại đây sau năm 75 (vài năm kia th́ phải “đẵn cây” trên rừng). Dù thế, tôi vẫn c̣n nhớ tâm trạng ḿnh lần đầu về lại Sài G̣n, cuối năm 1997. Tôi đă sững sờ nh́n thấy một Sài G̣n tiều tụy, nghèo nàn, nhớp nhúa, bụi bặm và hoang vắng … dù thật đông đúc. Trước mắt tôi, đôi lần, chỉ thấp thoáng bóng của những con người, bơ phờ, hốc hác, tất tả ngược xuôi, xa lạ, vô hồn. Tôi ngỡ ngàng, thẫn thờ. Tôi đă mong ước được nh́n thấy lại những tà áo trắng mượt mà Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn Bá Ṭng. Ước thấy lại những chiếc váy đầm nữ sinh xinh xắn Nhà Trắng Saint Paul, Régina Pacis, Marie Curie của một thời. Muốn bắt gặp lại những ánh mắt đẹp kiêu sa, kênh kiệu, hớp hồn cả đám học tṛ chúng tôi, từ trong những chiếc xe hơi nhà buổi sáng đưa em đi học. Nhưng đă không c̣n. Trong tâm trí tôi lúc đó, h́nh ảnh c̣n tồn tại sau thời gian dài biến động của đất nước và bản thân, là những h́nh ảnh của Sài G̣n và người Sài G̣n xinh tươi trước năm 75. Những h́nh ảnh đẹp đẽ của thời hoa mộng đă, một cách vô thức, ngự trị, khống chế tâm tưởng tôi, xua dạt đi những ǵ đau buồn, tệ hại của một thời không đáng nhớ.

Sau lần về đầu tiên đầy thất vọng và tiếc nuối đó, lạ thay, tôi lại nhớ mong Sài G̣n chỉ sau một thời gian ngắn về lại Úc. Và rồi cứ mỗi khi muốn đi nghỉ hè, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi cũng lại về Sài G̣n. Từ cái lần đầu chín năm trước đó, tôi đă về lại Sài G̣n nhiều lần. Lần này dù sẽ đi nhiều nước Âu Mỹ, tôi cũng ráng ghé qua Sài G̣n.

Tôi về đến Tân Sơn Nhất, qua ngả Singapore, vào gần giữa trưa. Cảnh vật dọc phi đạo vẫn như bị đóng chết trong khung thời gian, của hơn ba mươi năm trước. Vẫn những cḥi canh han rỉ thời chiến tranh. Vẫn những hangar máy bay thấp bé, với mái ṿm cong, rong rêu, đen đúa. Bên trong một số hangar có những chiếc máy bay trực thăng của Liên Xô, nhỏ thó, cũ kỹ. Nh́n các trực thăng tôi liên tưởng đến những chiếc xe đ̣ nhỏ, lẽ ra phải phế thải, ọc ạch chạy trên những con đường đến các quận lỵ xa xôi trước năm 75.


Tại quầy duyệt xét nhập cảnh, người sắp hàng lần này không đông như những lần trước. Các ông công an cửa khẩu, vẫn bộ mặt nghiêm nghị, trong quân phục màu xanh quân đội, với cầu vai lon lá đầy đủ. Mũ kết xếp thành một hàng dài ngay ngắn trên quày, cả ở ô không có người ngồi kiểm tra. Tất cả những h́nh ảnh đó vô t́nh (hay hữu ư?) tạo một ấn tượng khá mạnh mẽ rằng mọi người sắp đi vào một nước quân phiệt Nam Mỹ nào đó của thập niên 1960-70, như trong các phim xi nê tôi đă xem. Tôi nghĩ, phải chi họ mặc những đồng phục màu sắc nhẹ nhàng hơn. Gương mặt, cử chỉ, thái độ tươi cười, chào đón hơn có phải hay và đẹp không!? Những điều đó đâu có khó huấn luyện, hay làm giảm giá trị vai tṛ, hoặc ảnh hưởng đến nghiệp vụ, của họ đâu. Đối với một số không ít du khách ngoại quốc, đây là những người Việt Nam đầu tiên mà họ gặp. Đây là những người đại diện cho cả nước, cả dân tộc Việt Nam được tiếng là thân thiện, hiếu khách, chào đón du khách đến thăm quốc gia ḿnh. Không biết các ông có trách nhiệm có nghĩ như tôi không?


Dù sao lần này cũng có những tiến bộ đáng kể. Một số không ít nhân viên là nữ. Ánh mắt nhân viên không c̣n lạnh lùng hay có thái độ quan liêu, hách dịch, thiếu nhă nhặn (với cả khách ngoại quốc) như tôi bắt gặp ở những lần trước. Chuyện xem xét giấy tờ nhanh hơn (dù vẫn rất từ từ). Nhưng, vẫn chưa có tiếng chào, tiếng cám ơn, và nụ cười. Cứ nh́n thấy cảnh này là tôi buồn giận. V́ khổ thay, cái xấu hổ là xấu hổ chung. Thủ tục qua hải quan th́ lần này trơn tru và nhanh nhẹn hơn trước rất nhiều. Một tiến bộ đáng khen. Mà sao là “hải quan” nhỉ? “Hải” ở đây nghĩa là ǵ? Đâu có chút xíu “biển” nào tại phi trường Tân Sơn Nhất đâu? Hay là “hăi quan” cho “cửa ngơ hăi hùng”?


Vừa bước ra khỏi nhà ga phi trường lúc giữa trưa, tôi bị ngay cái nóng phủ chụp lên người, muốn dội ngược vào trong. Nóng hừng hực. Tôi nhớ ngày xưa Sài G̣n đâu có nóng như thế này! Hay tại tôi không c̣n quen với cái nóng? Chỉ có 33-34 độ C thôi mà chịu không thấu. Hay có lẽ v́ cả khu vực rộng lớn chỉ toàn bê tông, nhựa đường, rất ít bóng cây, nên cái sức nóng bị hấp thu, lưu giữ và hắt trở ra làm càng nóng hơn?! Và ẩm độ cao nữa. Nhưng các anh tài xế taxi hay trật tự ǵ đó th́ đi tới lui rất b́nh thản ngoài nắng, chẳng có vẻ ǵ nóng nực, khá tươm tất trong các bộ đồng phục có cả cà vạt.


Đă đầu tháng Sáu. Vào buổi chiều, Sài G̣n hay có những cơn mưa. Có khi mưa như trút nước, không dứt. Ở Úc, ít khi tôi thấy có những cơn mưa tầm tă, mịt mù, “giăng kín đường về”3 này. Ở Brisbane, thành phố tôi ở, khô hạn kéo dài gần một năm qua làm các hồ chứa nước đều gần cạn. Ở Sài g̣n, sau cơn mưa lớn, đường phố một số nơi lại biến thành hồ cạn. Tuy nhiên, sau cơn mưa, trời mát dịu lại nhiều, khá dễ chịu. Cho nên, nếu “trời không mưa, tôi cũng lạy trời mưa”3.


Lưu thông trong thành phố Sài G̣n th́ chắc nhiều người đă biết hay nghe nói. Đông đúc, chen lấn, luồn lách, hỗn độn, không trật tự hay tôn trọng luật lệ ǵ cả. Kỷ luật giao thông thật kém. T́nh trạng nay có khá hơn những năm trước, nhưng cũng c̣n rối rắm, nhất là tại các “bùng binh”. Nay đă có khá nhiều xe buưt vận hành trong thành phố, với giá tương đối rẻ, và chạy thường xuyên trên nhiều tuyến, đến tận ngoại ô. Nhưng xe gắn máy vẫn tràn ngập các con đường, từ sáng sớm cho đến 9-10 giờ đêm. Mỗi năm, trên cả nước có hơn 12 ngàn người chết v́ tai nạn giao thông th́ thật là hăi hùng (thống kê mới nhất của 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy số tai nạn có giảm nhưng số người chết vẫn không giảm). Mỗi tháng có hơn 1 ngàn người tử nạn. Khủng khiếp! Sài G̣n cũng góp vào thống kê trên một con số không nhỏ. Không chỉ riêng kỷ luật giao thông, mà nói chung, ư thức kỷ luật công dân tại Sài G̣n bây giờ tệ hại hơn trước 75 rất nhiều v́ kỷ cương xă hội hầu như sụp đổ. Và hệ thống giáo dục, trong rất nhiều năm, đă không chú trọng ǵ đến điều này. Chẳng “giáo dục công dân”, mà chỉ quan tâm nhồi nhét vào đầu học sinh ba điều chủ thuyết lỗi thời, hoang tưởng. Chủ tâm và ưu tiên có lẽ nhắm vào việc đào tạo những kẻ trung thành hơn là những công dân tốt.


Khi về trong nước tôi hay đọc các tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh Niên (tôi cũng thường xem trên mạng lúc ở nước ngoài). Tôi đọc thường để xem loại tin nào được đưa lên và cách tường thuật tin đó. Hai tờ báo trên là những tờ báo, theo tôi, nay có sự thông tin tương đối khá nhanh nhạy, ít gạn lọc (so với ngày trước). Có tư tưởng khá độc lập trong cách đưa tin và đặt vấn đề, kể cả các vấn đề “nhạy cảm”. Nhiều tờ báo khác thường né tránh các đề tài này, hay có đề cập đến th́ chỉ nói một chiều, chỉ ca tụng đến phát nản. Hay chỉ có những lập luận xưa cũ, không thuyết phục.


Gần đây, trên hai tờ báo trên, tôi thấy có một sự cởi mở khá rơ nét và mạnh dạn. Đặc biệt trong việc đăng tải các bài đóng góp ư kiến cho các diễn đàn (hay các ư kiến phản hồi), từ các độc giả thuộc nhiều giới, nhiều khuynh hướng, từ cả trong lẫn ngoài nước.


Thí dụ trong ngày 28.5.06, tờ Thanh Niên đă đăng trong mục diễn đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” một bài góp ư tựa là “Phải vượt qua nỗi sợ hăi”. Bài viết:


“…Nỗi sợ hăi chính là trở ngại lớn mà chúng ta cần phải vượt qua nó. Chừng nào nỗi sợ hăi bé đi th́ chúng ta mới lớn lên được”.


Bài viết dù không nói cụ thể đến sự việc ǵ, nhưng ở đây theo tôi, chi tiết đó không quan trọng. Lời khuyên “Phải vượt qua được nỗi sợ hăi” là điểm cốt lơi, là tinh thần của bài góp ư. Trong thời gian gần đây, có rất nhiều người trong nước đă mạnh dạn, dũng cảm, minh danh cùng kư tên vào các tuyên ngôn đ̣i hỏi những ước vọng chân chính cho ḿnh, cho đồng bào. Họ chẳng phải là “nhà đấu tranh” kiên cường, dày dạn hay nổi tiếng ǵ cả, mà chỉ là những công dân b́nh thường. Cứ đặt ḿnh ở vào vị trí họ trong hoàn cảnh hiện tại trong nước sẽ thấy cái dũng khí to lớn như thế nào. Họ đă vượt qua được nỗi sợ hăi. Trong niềm kính phục sâu xa, với tôi, họ là những sĩ phu, hào kiệt của đất nước thời nay. Đúng như Nguyễn Trăi đă viết:


“Vận nước có lúc cường, lúc nhược


Nhưng anh hùng, hào kiệt thời nào cũng có”


Cũng trong mục ấy, có một bài góp ư khác của một người kư tên Nhất Chi Mai. Tác giả viết:


“Ta vẫn thường nhắc tới lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng, nhắc tới tinh thần đoàn kết dân tộc nhưng sau những chiến thắng oai hùng đó ta lại tự ḿnh làm bé ḿnh. ….. Về mặt địa lư, dân số và lịch sử, Việt Nam là một nước không nhỏ, nhưng là một nước đang ngủ quên trên những chiến tích. ….. Cần lắm một cơ chế ràng buộc trách nhiệmcần lắm sự cương quyết của những nhà lănh đạo, với sự sáng suốt và quyết đoán” (tôi ghi chữ nghiêng đoạn cần nhấn mạnh).


Nếu ở hải ngoại th́ nội dung những lời đóng góp ư kiến trên cũng b́nh thường. Nhưng trên một tờ báo trong nước, có thể xem là những đóng góp rất thẳng thắn, mạnh dạn. Đăng tải nó là một thay đổi tư duy đáng để ư của Ban biên tập. Không chỉ c̣n là những bài ca tụng sáo rỗng thường thấy trên báo như trước. Tôi khá tâm đắc với những ư kiến này. Nhưng từ lâu tôi không thích từ “cơ chế” thường được dùng. Nó mơ hồ, thấp bé và giới hạn.


Ai cũng biết là quyền lực làm tha hóa con người, cho dù con người đó trước khi nắm quyền lực, là một con người toàn thiện, có chủ tâm v́ người khác mà phục vụ. Cũng đừng nói chi đến quyền lực to lớn tột cùng của cai trị quốc gia ở Việt Nam, thường với quyền sinh sát trong tay cùng bao cám dỗ lợi lộc to lớn. Ngay cả với những tập thể nhỏ như một Hội Đoàn, một Cộng Đồng địa phương, qui luật đó cũng thường được thể hiện và minh chứng khá rơ ràng. Do đó, trước khi cần đến sự cương quyết, sáng suốt và quyết đoán của lănh đạo nào đó, như trong bài viết nói trên, Việt Nam cần có một hệ thống chính quyền pháp trị có thể hổ trợ, bảo vệ và thực thi được những đức tính này. Và cần có một hệ thống chính trị có thể giám sát, ràng buộc trách nhiệm cùng xiễn dương các hoạt động điều hành đất nước. Cụ thể hơn th́ đó phải là một thể chế dân chủ. Thiếu điều kiện này, tôi nghĩ, quyền lực rồi sẽ làm tha hóa hầu như bất cứ ai.



-- Edited by bom11 at 04:16, 2006-09-21

-- Edited by BaHa at 09:02, 2006-09-21

__________________
bom11


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 27
Date:

Về Sài G̣n tôi hay đi nghe nhạc. Tôi đă đến hầu hết những pḥng trà nổi tiếng tại Sài G̣n như Tiếng Tơ Đồng (đă đóng cửa), Em và Tôi (M&Tôi), Yesterday, Đồng Dao (đă đóng cửa), ATB, 2B, và nhiều nơi nữa. Ngoài chuyện giải trí, thưởng thức văn nghệ, v́ thích nghe nhạc, tôi muốn xem nhạc của nhạc sĩ nào ở miền Nam trước năm 75 được cho phép tŕnh diễn. Để qua đó đo lường (phần nào đó, tôi nghĩ) mức độ cởi mở chính trị ở Việt Nam. Tôi thấy thật là điều khắt khe vô lư của chủ trương kiểm duyệt văn hóa này, mà tự thân chủ trương lại … kém văn hóa. Mang tính trừng phạt và tưởng thưởng v́ quan điểm và thái độ chính trị của tác giả hơn là v́ nội dung bài hát. Thời gian gần đây, mỗi lần tôi về, lại thấy có một số bài hát, của những nhạc sĩ miền Nam cũ, được cho phép hát lại. Khá nhiều. Những t́nh khúc của các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Phạm Đ́nh Chương, rất được ca sĩ lẫn người nghe ưa chuộng. Mấy năm trước khi nhạc sĩ Phạm Duy về sinh sống luôn tại Sài G̣n, tôi có một vài lần nghe nhạc của ông được tŕnh bày tại một vài pḥng trà. Nhưng tôi không nghe ca sĩ giới thiệu tên tác giả như thường lệ, dù hầu như mọi người đều biết của ai. Những bản nhạc này cũng không nằm trong danh sách những bản nhạc của ông được chính thức cho phép hát mới đây.

Lần này, lần đầu tiên, tôi nghe một bài hát của nhạc sĩ Lam Phương tại một pḥng trà (cũng không có giới thiệu tên ông). Tôi yêu mến ḍng nhạc t́nh cảm, rất thiết tha và cũng rất nhân hậu của ông. Nhạc của ông bị cấm lâu có lẽ, tôi đoán ṃ, v́ người ta “giận” ông nhiều. Nhất là v́ cái câu: “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?…” trong một bài hát4 có ca từ rất chua chát về Tây Đô Cần Thơ ( thí dụ: “Ngày xưa ta quen từng viên đá nơi sân trường. Nay sao nghe khác từng tên đường”). Ai từng ở đảo Bidong chắc đều có một lần nghe bài hát của ông (“Đường Về Quê Hương”) với các câu “Biết bao giờ trở về Việt Nam, thăm đồng lúa vàng, thăm con đ̣ chiều xưa? Biết bao giờ ta lại gặp ta …?” được ban điều hành trại tị nạn phát lên hệ thống loa của trại mỗi khi có nhóm người tị nạn rời đảo đi định cư. Nghe năo nuột, buồn thúi ruột lúc chia tay, trong hoàn cảnh tha hương không mong có ngày về lúc đó.

Có vài bài báo ở trong nước, tôi nghĩ là đă không thành thật, khi gần đây gọp chung các t́nh khúc của các nhạc sĩ trên (và của nhiều người nữa) là nhạc tiền chiến. Đâu có “tiền” đâu! Tôi nghĩ “nhạc tiền chiến” được hiểu là trước thời chiến tranh Việt Pháp 1946-1954. Hay ít ra cũng trong thời gian đó. Hầu như toàn bộ t́nh khúc của các nhạc sĩ miền Nam trên lại được sáng tác “trong” thời chiến 1954-75 kia mà. T́nh yêu lứa đôi, cùng với t́nh yêu quê hương, đất nước, tại miền Nam, vẫn tràn đầy. Vẫn được nhắc nhở, ca tụng, dù trong thời chiến tranh máu lửa, khốc liệt.
Tôi nhớ cách đây 4-5 năm, tại pḥng trà Tiếng Tơ Đồng vào mùa Giáng Sinh, tôi đă nghe Thanh Lam hát “Bài Thánh Ca Buồn”5 (“Bài thánh ca đó c̣n nhớ không em? Noel năm nào chúng ḿnh có đôi …”) đầy kỷ niệm. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại bài hát này, qua một giọng ca thật điêu luyện và truyền cảm. Trong khoảnh khắc, cả một trời kỷ niệm cũ ùa về. Tôi chợt như được sống lại những mùa Noel Sài G̣n háo hức, nhộn nhịp, rộn ràng, hồi hộp, tuyệt vời của những năm nào ở tuổi đôi mươi. Khi nghe lại một bài hát gợi nhiều kỷ niệm, ḷng ḿnh xao xuyến vô cùng. Dù đôi khi sự gợi nhớ dĩ văng cũng làm ḷng ḿnh chùng xuống.

Tôi c̣n nhớ lúc tôi học năm thứ nhất đại học, tôi có cô bạn gái học lớp 10 Marie Curie. Đêm Noel tôi chở em trên xe gắn máy ra nhà thờ Đức Bà, như rất nhiều thanh niên trai gái Sài G̣n thời đó. Em sung sướng, hănh diện với tôi và các bạn, v́ lần đầu tiên được mặc chiếc áo dài truyền thống thướt tha. Thế mà tôi lạng quạng làm sao lại làm em té xuống đất, trên đường Lê Lợi, áo quần lấm lem. Không biết có phải v́ thế mà vài tháng sau (1969) em bỏ tôi lại, theo gia đ́nh sang Mỹ (Ba của em là viên chức cao cấp của Ṭa Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Mỹ). Rồi từ đó tôi không hề gặp lại em.

Trên đường từ nhà em tôi, nơi tôi trú ngụ, ra trung tâm Sài G̣n, tôi thường chạy ngang trường Trung học Pétrus Kư cũ của ḿnh. Ngôi trường tôi có rất nhiều kỷ niệm với lũ bạn xôn xao những mối t́nh đầu. Lần nào đi qua tôi cũng nh́n vào cổng trường xem sao. Nh́n hai hàng cây sao cao to bên hông trường, nơi ngày xưa là băi đậu xe của học sinh, tôi lại nhớ đến Thầy Tổng giám thị Chương. Thầy hay đứng sau gốc các cây sao trên, để ŕnh bắt phạt học tṛ không mặc đồng phục đang dắt xe vào trường. Trường tôi có tiếng rất nghiêm về kỷ luật là nhờ các thầy giám thị. Tôi có lần cũng bị Thầy Chương chụp bắt lên văn pḥng, không phải v́ chuyện đồng phục, mà v́ tội để tóc dài. Tôi né trốn thầy hoài mà rồi cũng không thoát (nhưng tôi không giận thầy). Trường tôi nay đă đổi tên là Lê Hồng Phong. Bây giờ có cả nữ sinh. Tôi không phản đối chủ trương trường hỗn hợp nam nữ. Cũng có cái hay của nó. Nhưng để phá vỡ cái truyền thống của biết bao năm không v́ một lư do thiết yếu th́ tôi không đồng t́nh. Trường Nữ Trung học Gia Long cổ xưa, truyền thống cũng thế. Nay có cả nam sinh và cũng đă bị đổi tên.

Mà sao có quá nhiều trường, ở nhiều tỉnh của cả nước, cũng chỉ tới lui trùng hợp vài cái tên không dính líu ǵ đến văn hóa, giáo dục? Tôi nghĩ sẽ làm giảm đi rất nhiều niềm thương yêu, hănh diện của học sinh khi nhắc đến tên riêng của ngôi trường ḿnh. Nhắc đến Trưng Vương, Chu Văn An, Pétrus Kư, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm, Phan Chu Trinh ngày trước, hầu như ai cũng biết đó là những trường nào, ở đâu.

Ở Sài G̣n đông đúc hiện nay việc di chuyển, đi lại rất bất tiện, mất thời giờ. Sau vài lần về, tôi cũng bắt đầu chạy chiếc xe gắn máy của đứa em cho mượn. Tôi ít đi taxi v́ nó tốn kém mà lại chậm chạp trên đường phố lúc nào cũng đông nghẹt xe. Dù sao th́ tôi cũng từng là thổ địa nơi đây, khá rành rẽ đường lối. Có điều tôi không thể nào nhớ nổi các tên đường mới được thay sau này. Nhiều tên lạ hoắc, không biết là ai (tôi cũng chẳng ṭ ṃ t́m hiểu là ai). Rồi lại những con số, ngày tháng lấy làm tên đường, nghe không quen, không nhớ, lẫn lộn, rối mù.

Tôi cũng hay đi vào các tiệm sách, xem sách, mua sách. Bây giờ th́ có khá nhiều nhà sách, thường rất lớn. Nhà sách Khai Trí ở đường Lê Lợi đă mở cửa lại nhưng mang tên Sài G̣n. Có nhiều tiệm sách nhỏ của tư nhân, dọc hai bên đường Hồng Thập Tự cũ, đoạn gần đường Nguyễn Thiện Thuật. Nơi đây có bán sách cũ, mới và giảm 20-30% trên giá bán, không như ở các tiệm lớn. Có khá nhiều tựa sách, bao gồm nhiều lănh vực. Nay có rất nhiều tác giả trong nước tôi không quen tên. Sách của các nhà văn nhóm Tự Lự Văn Đoàn, hay các nhà văn, nhà thơ vào thời đó, cũng đă được in lại từ nhiều năm trước. Mỗi lần về lại thấy có ấn bản mới, to hơn, đẹp hơn. Có lẽ nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê có nhiều sách in lại nhất (ngoài ông và nhà văn Sơn Nam, c̣n mấy sách nào của các tác giả miền Nam được phép in lại?!?). Giá sách nói chung th́ rất rẻ so với mức thu nhập ở nước ngoài (vào khoảng 3-4 Úc kim/quyển). Nhưng như thế cũng tốn đến một, hai ngày lương công nhân trong nước. Một số sách của, hay về, các nhà văn, thơ của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần, …… cũng có được in lại. Nhưng vẫn đuợc lọc lựa bởi cái sàng chính trị. Nội dung các sách này, mà tôi được đọc, th́ không ǵ hay, phiến diện và không giống như tôi đă đọc về các ông trước năm 75 hay ở hải ngoại. Tôi nghĩ người ta đă sai lầm khi cố t́nh chỉ lọc lựa đưa ra, theo ư ḿnh, một vài quan điểm thuận lợi nào đó từ các ông, ở giai đoạn thích hợp nào đó của cuộc đời các ông. Vắng đi hay lướt vội qua các dằn vật chuyễn đổi về tư tưởng cùng cuộc sống bất hạnh, đầy nhọc nhằn, cay đắng mà các ông và người thân đă trải qua hay gánh chịu. Thời đại này khó có thể giấu diếm được điều ǵ. Mà mập mờ nói có phân nửa th́ chỉ phản tác dụng.

Quyển “Nhật kư Đặng Thùy Trâm”được bày bán nhiều. Tôi cảm phục và kính trọng ḷng hy sinh của cô mà cũng lại thương cho cô. Có sách mới của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (“Viết cho bè bạn”). Nhưng không có quyển “Chuyện kể năm 2000” của ông mà tôi rất thích. Nội dung quyển sách mới th́ b́nh thường, thậm chí nhạt nhẽo. Toàn bộ tinh túy và tâm huyết của ông đă dồn hết vào quyển kia rồi. Có thấy tập truyện ngắn “Bóng Đè” gây nhiều tranh luận của nhà văn nữ trẻ Đỗ Hoàng Diệu.

Có nhiều quyển sách mới tái bản của nhà văn nữ trẻ Nguyễn Ngọc Tư, nổi tiếng với chuyện “Cánh Đồng Bất Tận”, được bày bán. Mới đây thôi, cô bị Sở Thông Tin - Văn Hóa Cà Mau, nơi cô sống và công tác, phê b́nh, kiểm điểm, khiển trách, qui chụp, đ̣i khai trừ, cách chức, đuổi đi khỏi tỉnh ǵ đó (tôi kể dám c̣n thiếu). Nhưng không ngờ, cô được độc giả phản ứng với hàng trăm ư kiến bênh vực mạnh mẽ trên các báo. Thêm nữa, báo Tuổi Trẻ và vài nhà xuất bản khác, c̣n ra mặt ủng hộ, tái bản ào ạt (có sách ghi chú tái bản lần thứ năm) các sách bị phê phán của cô. Đáng chú ư là các “ông quan văn hóa” (chữ trên báo trong nước) Cà Mau bị độc giả khắp nơi chỉ trích kịch liệt về các quyết định này, thậm chí c̣n chê bai, dè bỉu khả năng, tŕnh độ của các ông. Cái bóng con đường đen tối của Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, vv… những tưởng …, đă không lập lại. Sự thông tin rộng răi, thông suốt, nhanh nhạy của thời đại internet, thời toàn cầu hoá, đă không cho phép điều đó lập lại.

Nguyễn Ngọc Tư tự nhận định văn chương của cô (và cả bản thân) như trái xoài riêng. “Có người thích, có người chê”. Nhưng cô “chẳng bẻ ḿnh bẻ mẩy để lấy ḷng người” (mấy câu này có in trên b́a sau sách đàng hoàng). Các nhà văn, nhà thơ,

“Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu”6 đều khí khái như nhau.

Miền Nam nói chung và Sài G̣n nói riêng đă mở rộng ṿng tay, ưu ái đón chào lưu dân tứ xứ, từ nhiều trăm năm trước. Tôi thấy ngày nay Sài G̣n vẫn c̣n cái truyền thống đó. Tôi đă gặp rất nhiều người bán hàng rong, lao động, tài xế, bán hàng, vv… trên khắp đường phố Sài G̣n, đến từ nhiều miền xa xôi ngoài Bắc. Mấy ngày trước, trên một xe taxi, nghe anh tài xế nói giọng “miền Bắc 75” (cái giọng cao, nhanh và chua đặc trưng không lẫn được; không êm ái, ngọt ngào, thanh lịch như đa số người “miền Bắc 54”), tôi đă ṭ ṃ hỏi thăm anh quê ở nơi nào ngoài Bắc, vào đây lâu chưa. Anh nói từ Hà Tây. Cả gia đ́nh bốn người vào đây sống đă tám năm rồi. Tôi hỏi anh thấy cuộc sống nơi này, dân t́nh thế nào th́ anh phán câu “đất lành chim đậu” làm tôi mát cả ruột. Tôi c̣n trao đổi với anh nhiều điều và anh cũng đồng ư với tôi. Tôi cũng đă nhiều lần nói chuyện với nhiều người có hoàn cảnh như anh. Họ cũng đồng ư, hay rồi cuối cùng cũng phải đồng ư, giống như anh.

Vùng đất miền Nam trù phú, hiền ḥa, trong đó có Sài G̣n, đă sản sinh tư tưởng, giáo dục nếp sống, dịu hiền, đôn hậu, trọn t́nh, trọn nghĩa như trong các câu ca dao:

“Đèn Sài G̣n ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

Tổ tiên tôi, nghe người lớn kể, cũng là người đàng ngoài, vào Nam lập nghiệp từ hàng trăm năm trước. Nhưng cũng rất nhiều năm sau những nhóm di thần nhà Minh từ nước Trung hoa xa xôi do Mạc Cửu, Trần Tiễn Thành, Dương Ngạn Địch, Trần Đại Xuyên cầm đầu chạy sang trú ngụ. Và từ những đợt di dân, tị nạn sau nhiều cơn biến loạn ở Trung Hoa sau đó. Rồi thời năm 54 (mới đây mà đă hơn 50 năm rồi!), cả triệu đồng bào miền Bắc cũng di cư vào Nam lập nghiệp. Tất cả, cùng với dân Khờ me tại địa phương, đă tạo thành một tập hợp với nhiều ưu tính của từng sắc dân. May mắn được sống trong một vùng đất trù phú, họ đă h́nh thành một tập thể “người miền Nam” hiền ḥa, nghĩa khí. Và Sài G̣n, đă và sẽ măi vẫn là cái nôi văn hóa, là thủ đô của miền Nam nhân bản này.

Có lẽ tôi có thể kể những cái dở, cái xấu, cái nghịch lư, bất công hiện nay ở Sài G̣n cả ngày không hết. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói, đă có những tiến bộ trong mấy năm qua. Đă có lại những con đường sạch sẻ với hàng cây xanh, luống hoa được chăm chút. Những cửa hàng quần áo sáng sủa, chưng bày thật mỹ thuật, đẹp mắt như trên đường Vơ Tánh cũ (nay là Nguyễn Trăi nối dài), con đường quen thuộc của tôi. Những nhà hàng, quán cà phê thiết trí trang nhă với nhân viên trong các bộ đồng phục thẳng thóm, đúng cách, phục vụ chu đáo, lễ độ. Những khuôn mặt đâu đó trên đường phố tươi vui, xinh xắn, trong các bộ áo quần tươm tất, lịch sự, hợp thời. Có những câu chào, những nụ cười. Không nhiều, không đồng bộ, nhưng đă có.

Nhưng, cho dù Sài G̣n ngày nay không được như trước năm 75. Đă làm tôi tức ḿnh, buồn bực, tiếc nuối h́nh ảnh quá khứ, vẫn gắn chặt với ḷng tôi (chắc cũng giống như Hà Nội vẫn sống trong ḷng người dân, nhà văn, nhà thơ miền Bắc di cư vào Nam sau năm 54). Cho dù quán La Pagode không c̣n, rạp mini Rex đă dẹp, tiệm kem Hoàng Gia trên đường Tự Do biến mất, tôi vẫn như c̣n thấy cái hồn Sài G̣n ngày xưa của tôi c̣n vương vất trên các con đường, góc phố. Cho dù người ta đă thay đổi hầu hết tên những con đường, đọc hoài không nhớ, tôi vẫn gọi bằng tên cũ. Vẫn Hiền Vương, Gia Long, Duy Tân, Thống Nhất, Hồng Thập Tự, Công Lư, Tự Do. Tôi vẫn muốn thủy chung với Sài G̣n của tôi.


Tôi có quá nhiều kỷ niệm ở nơi này để mà tôi có thể quay lưng, xóa đi quá khứ, giận dỗi không đoái hoài. Tôi vẫn cứ muốn về thăm lại Sài G̣n. Vẫn muốn thấy nhiều người Sài G̣n xa xứ trở về thăm lại thành phố này. V́ tôi tin rằng, một ngày không xa, Sài G̣n ngày xưa của tôi sẽ trở lại. Chính sự về thăm lại Sài G̣n của những cựu dân nơi này sẽ có ảnh hưởng, không nhiều th́ ít, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ư hay vô t́nh, làm sống lại nhanh hơn cái hồn, cái chất, cái cung cách, lối sống của Sài G̣n năm xưa. Tôi nghĩ và tin như thế, dù biết có người không đồng ư. Tôi tin tính nhân bản cuối cùng sẽ thắng. Người Sài G̣n có truyền thống yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ, luôn đề cao cùng sống theo những giá trị này.

Nếu sự khôi phục không thể kịp cho tôi th́ cho thế hệ kế tiếp, cũng tốt thôi. Tương lai của hàng triệu người Sài G̣n trẻ tuổi, thực tế, sẽ không ở nơi đâu khác hơn là tại Sài G̣n, tại Việt Nam. Để họ được sống trong một Sài G̣n như tôi đă từng sống. Một Sài G̣n tươi đẹp, sung túc, thanh lịch và văn minh. Để họ có được cái may mắn như hàng bao lớp thanh niên chúng tôi, đă thương yêu Sài G̣n như người yêu và được Sài G̣n đền đáp lại bằng những ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt ngào, cách cư xử chân t́nh của bao nam thanh nữ tú. Cùng với những nơi chốn gặp gỡ, hẹn ḥ thơ mộng, mà h́nh ảnh, kỷ niệm, khắc sâu trong tim chúng tôi, măi không rời.


(Viết tại Sài G̣n, đầu tháng Sáu, 2006. Hiệu đính đầu tháng Tám, 2006, Úc)


1 Nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn
2 Lời một bài hát, không nhớ tựa và tên tác giả
3 “Tháng Sáu Trời Mưa”, thơ Nguyên Sa, nhạc Ngô Thụy Miên
4 Bài “Chiều Tây Đô”
5 Nhạc sĩ Nguyễn Vũ
6 Thơ, “Lời Mẹ Dặn” của Phùng Quán



-- Edited by bom11 at 04:14, 2006-09-21

-- Edited by BaHa at 09:03, 2006-09-21

__________________
bom11


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
RE: Sài G̣n cua tôi


Cám ơn chị Bom11 đă đăng bài viết rất chân t́nh của một người Sài g̣n . Mong được sự đóng góp của chị nhiều hơn .
Thân mến .
BH 



__________________


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 27
Date:
RE: Sài G̣n của tôi


 Chào bác Baha,


Bờm cũng theo hướng dẫn của bác, mở Mviet lên mà sao vẫn không gơ được chữ Việt có dấu trong trang nhà của bác. Phải gơ bài từ chỗ khác rồi cọp dê mang về đây, hơi phiền một chút. Sao bác không gắn thẳng MViệt vào online luôn cho tiện, làm giống như bên tvvn đó.


Bài viết trên do tác giả gửi Bờm đọc, thấy hay nên B xin phép được mang đi "khoe" với mọi người thôi mà



-- Edited by bom11 at 18:39, 2006-09-22

__________________
bom11


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:

 

Sắc màu đêm Sài G̣n


CNQ Realty Vương Văn Quang - Tản văn



“Tôi bơi trong mùa mưa
một con kênh thối đâm xuyên ḷng thành phố”



Sài G̣n chỉ có hai mùa, mưa và khô. Nhưng dù là mùa ǵ, mưa hay khô th́ nhiệt độ của Sài G̣n vẫn quoanh năm nóng gay gắt. Có vẻ như thời tiết Sài G̣n hơi bị “monotone” nếu đem so với Hà Nội. Nhưng hăy khoan thất vọng, bởi khi những tia nắng cuối cùng vừa tắt, Sài G̣n trở nên quyến rũ vô cùng. Không gian như thoáng rộng thêm, gió lộng, không khí dịu mát dễ chịu… Vẫn ḍng người ngược xuôi bất tận, nhưng dưới ánh hoàng hôn Sài G̣n, dường như tất cả trở nên đẹp hơn, lung linh hơn.

Ǵ cũng có: rượu rắn, giầy hiệu, nữ trang, giầy giả…(1/2006)
Nguồn: journals.worldnomads.com



Có ai đó đă nói: “Sài G̣n về đêm mới thật là Sài G̣n”. Có vẻ không đúng, bởi Sài G̣n ban ngày không phải Sài G̣n hay sao? Nhưng họ nói vậy không phải không có lí. Sài G̣n, nhất là những ngày cuối tháng tư này, đang khởi động cho lễ kỉ niệm ngày “giải phóng”, nắng chói chang cùng với hơi người, khói xe & đủ loại tiếng ồn khiến không khí đă nóng lại càng thêm nóng. V́ thế, Sài G̣n ban ngày giống như một mụ già măn kinh lăng loàn xấu nết, phấn son ḷe loẹt lượn lờ các chốn ăn chơi để dụ dỗ liền ông.

Chỉ về đêm, Sài G̣n mới thật là Sài G̣n. Khi thành phố lên đèn, mầu của khẩu hiệu sẽ phải nhường chỗ cho ánh đèn đường, biển hiệu quảng cáo. Đêm Sài G̣n mới thật đẹp làm sao, từ không khí, nhiệt độ, cho tới cách sinh hoạt của người dân thành phố…, tất cả hiện lên thật đặc trưng.

Đêm, nhưng Sài G̣n không ngủ. Ở các quận trung tâm, cuộc sống vẫn tiếp tục. Sau 11g, trời hơi se lạnh, nhưng đó mới là lúc nhiều người ra đường đi chơi, và cả… đi làm.

Đêm Sài G̣n với những quán cà phê yên tĩnh, lịch sự và sang trọng trên những con đường như Đồng Khởi, Vơ Văn Tần, khu bùng binh Hồ Con Rùa…, nếu hứng thú, bạn hăy leo lên (thang máy) cà phê Panorama trên tầng 33 mà ngắm toàn cảnh Sài G̣n. Những vệt sáng đèn đêm mờ nḥe đan xiên vào nhau như dải ngân hà muôn sắc, Sài G̣n đêm lung linh huyền ảo… Và, cũng vô cùng sẵn những quán bar-cafe ồn ào nhức óc bởi nhạc metal, nồng nặc mùi rượu bia đắt tiền, ngột ngạt khói thuốc, những cô gái (xuất xứ đủ nguồn) chân không dài lắm nhưng váy cực ngắn, có lẽ chỉ dài hơn “underwear” chút xíu, uốn éo, lắc lư bám cột thể hiện những động tác gợi t́nh giống như xiếc khỉ. Nếu bạn là người yếu bóng vía về tiền bạc th́ chớ nên bước chân vào những quán này. Một chai rượu ngoại loại trung b́nh khá (Remy Martin, chẳng hạn) cũng có thể nghiến hết hơn một tháng lương công chức trung b́nh khá. Nhưng khách khứa ở đó không v́ thế mà vắng vẻ, ngược lại là khác, thậm chí có những quán c̣n không có chỗ ngồi. Người dân Sài G̣n thương nói (đùa?): “Đó là những quán xá dành cho quan cách mạng”.

Có dịp nào, bạn thao thức cùng Sài G̣n, bạn thả bộ dọc những con đường như Tôn Đức Thắng, bến Bạch Đằng, bạn hít căng lồng ngực làn gió mát rượi từ sông Sài G̣n, ngắm nh́n những cặp t́nh nhân đang âu yếm, lăng mạn và t́nh tứ… Rồi, xuôi xuống đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (quăng trước dinh Độc Lập), hay quẹo sang Huyền Trân Công Chúa, Nguyễn Thị Minh Khai (quăng gần vườn Tao Đàn) bạn [lại] ngắm nh́n những cô gái bán hoa đang nhộn nhịp đốt vía do ế khách (họ đốt mấy tờ giấy báo rồi bước qua bước lại) và bạn [cũng] hít căng lồng ngực cái không khí đượm mùi chất thải của mấy tay bợm nhậu ban chiều.

Những quán ăn đêm cũng làm nên một bộ mặt Sài G̣n. Bên cạnh những nhà hàng đêm sang trọng như ABC trên đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, hay Hoàng Thành đường Nguyễn Thái Học… dành cho các đại gia, quan lớn và các “trà hoa nữ”, th́ các quán b́nh dân như khu Lư Chính Thắng, chân cầu Kiệu, hoặc khu “Cấm Chỉ” (đường Hải Triều) cũng luôn rôm rả tấp nập. Từ khi kênh Nhiêu Lộc được kè đá, hai bên bờ kênh mọc lên san sát những quán nhậu đêm. Khách nhậu ngồi la liệt, mùi mực nướng, ṣ nướng xen lẫn với mùi nước kênh sóng sánh nồng nàn. Thật là tiên tửu!

Quả thật, người Sài G̣n chịu ăn. Họ ăn ngày ăn đêm, ăn miệt mài cần mẫn. Tôi có anh bạn kinh doanh về ăn uống, anh là chủ một quán phở khá nổi tiếng trên đường Lư Chính Thắng quận 3 (quán phở Phú Gia) và hai quán thịt chó ở khu Tân Sân Nhất. Anh tuyên bố xanh rờn: “Đất Sài G̣n chỉ bán hàng ăn là không thể thua lỗ, chỉ lăi nhiều hay ít mà thôi. Với sự phóng khoáng vô tư đáng yêu của người Sài G̣n, cứ ăn được là bán được, bất kể ngon hay dở”.

Âm thanh của Sài G̣n về đêm cũng không thể lẫn với bất cứ thành phố nào. Tiếng mơ lóc cóc của mấy chú mỳ “xực tắc”, mỳ hoành thánh; tiếng xúc xắc lèng xèng của đám tẩm quất giác hơi; tiếng xe hơi, xe máy đời mới lướt êm ru; tiếng nẹt pô của mấy cậu choai choai làm tṛ khỉ; tiếng gầm rú của xích lô, ba gác máy chở hàng cho mấy chợ đêm, tiếng rao buồn buồn của các bác bánh chưng bánh gị, thi thoảng điểm xuyết bằng những chuỗi cười rít lên the thé hay những tiếng căi cọ chửi bới bay ra từ các quán nhậu…, những âm thanh nổi, và cả những âm thanh ch́m, tất cả tạo nên một bản giao hưởng có một không hai.

Người và xe …(1/2006)
Nguồn: kevinandnhan.com


Một điểm đặc biệt của Sài G̣n đêm mà không thể không nhắc đến, đó là dăy phố “net” trên đường Trần Quang Khải, nơi đây cũng không hề ngủ. Khách hàng rất đông, họ say sưa trước màn h́nh thâu đêm suốt sáng để “chat”. Bên cạnh những máy thông thường, những tiệm “net” này c̣n có các máy “VIP”, tức là những máy đặt trong pḥng riêng, có máy lạnh, có trang bị camera (webcam) loại xịn, để phục vụ cho các khách “VIP”, chủ yếu là những cô gái tiếp thị “hàng” qua mạng.

Khoảng ngoài 4g sáng, xe cộ bắt đầu tấp nập, những người đi chợ sớm, những người đi chơi và đi “làm” về, các cửa hàng bán đồ ăn sáng bắt đầu lục tục chuẩn bị, lác đác các cụ già đă đi bách bộ, tập dưỡng sinh… Sài G̣n lại vào một ngày mới.

Đêm Sài G̣n lung linh mầu sắc. Mỗi con đường, mỗi góc phố, mỗi âm thanh, mỗi mùi vị. Không khí thiên nhiên cho tới không khí sinh hoạt của người dân thành phố…, đều toát lên một nét rất riêng.

Đêm Sài G̣n, bên cạnh những sắc mầu lung linh rực rỡ, c̣n có những mảng tối đen ảm đạm. Nhưng, một bức tranh đẹp được vẽ nên không chỉ bởi những sắc màu sặc sỡ lung linh.



-- Edited by BaHa at 17:12, 2006-10-11

__________________


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 27
Date:
RE: Sài G̣n của tôi


thử

__________________
bom11
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard