Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Tranh Trung Hoa


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:
Tranh Trung Hoa


BIỂU TƯỢNG


TRONG TRANH TRUNG HOA


 


                                                                                                   Lê Anh Minh



 


Mỗi khi thưởng ngoạn một bức tranh Trung Hoa, ấn tượng ban đầu của đa số chúng ta hầu như ở phương diện h́nh thức, tức là đánh giá xem tranh vẽ có đẹp hay không. Nhưng nếu tự hỏi tại sao tranh có chủ đề như thế, hay tác giả muốn gởi gắm điều ǵ qua bức tranh ấy, có lẽ không ít người lúng túng t́m câu giải đáp.


Ở đây chúng ta sẽ không xét tới những họa phẩm của những tác giả hiện đại chịu ảnh hưởng những trường phái hội họa Tây phương (như phái ấn tượng, phái siêu thực,...) mà chính tác giả mới hiểu hoặc không ai hiểu ǵ cả (kể cả tác giả). Chúng ta cũng không xét tới các họa phẩm mang tính chất tôn giáo bởi v́ mục đích của tranh đă thấy rơ. Chúng ta sẽ xét những bức tranh mang đậm nét truyền thống, thậm chí dân gian, để thấy ư nghĩa biểu tượng được gởi gắm trong đó. Thí dụ như tranh có các chủ đề như: hoa điểu, rồng, ngựa, vượn, cá, tùng hạc, sơn thủy,...


Đối với loại tranh này, cái chủ đề với ư nghĩa biểu tượng th́ quan trọng hơn phong cách hay kỹ thuật thể hiện (thuật ngữ chuyên môn gọi là kỹ pháp). Tác giả có thể dùng công bút (tức là lối vẽ tỉ mỉ, bất cứ vật ǵ cũng có đường viền thậm chí cọng cỏ hay chiếc lá, rồi tô màu lên); hoặc dùng ư bút (tức là lối vẽ phóng khoáng, loại bỏ hoặc rất hạn chế đường viền, thậm chí một nét bút cũng thành lá lan hay cọng cỏ). Tác giả cũng có thể dùng màu sắc rực rỡ tươi thắm, hoặc màu sắc nhàn nhạt lạnh lẽo, thậm chí vẽ toàn mực đen (thuật ngữ gọi là mặc họa). Dù sao mặc ḷng, tất cả điều ấy cũng chỉ là những h́nh thức thể hiện đa dạng, mà mục đích chủ yếu là nhằm chuyển tải một ư nghĩa biểu tượng nào đó.


Có hai điểm nổi bật của loại tranh này. Thứ nhất, trong cuộc sống người ta thường gán cho một sự vật nào đó một ư nghĩa biểu tượng. Thí dụ: trúc là quân tử, mai là giai nhân, cây tùng và chim hạc ngụ ư trường thọ (tùng hạc diên niên),... Họa sĩ chỉ việc thể hiện nó bằng kỹ pháp riêng của ḿnh. Đặc điểm thứ hai là thông qua ngôn ngữ (nhất là từ ngữ đồng âm hay cận âm) người ta sẽ liên tưởng h́nh vẽ này đến một sự vật nào đó với ư nghĩa biểu tượng nhất định trong tâm thức chung của mọi người. Thí dụ bức tranh vẽ con cá. Chữ Hán ngư (cá) đồng âm (âm Bắc Kinh) với chữ (dư thừa, dư dật). Qua ư nghĩa biểu tượng này là niềm ao ước một cuộc sống dư dật, khá giả. Nếu vẽ 9 con cá, th́ ước nguyện này càng mạnh mẽ. Chữ Hán cửu (số 9) đồng âm ji với chữ cửu (lâu dài, trường cửu). Cửu ngư (9 con cá) phát âm ji yú giống như cửu dư (dư dật lâu dài), ngụ ư một ước mong được sống khá giả măi. Điều này cũng giống như người Việt Nam sắp đặt đĩa trái cây ngày tết gồm măng cầu, dừa xiêm, đu đủ, xoài với ước nguyện khiêm tốn cầu vừa đủ xài trong tiết xuân sang; bởi v́ người Việt ở Nam Bộ phát âm dừa giống như vừa, xoài giống như xài (Thật ra mong ước đó không khiêm tốn đâu, bởi v́ ở đời biết thế nào mới là đủ). Tất nhiên sự so sánh này chỉ nhắm vào khía cạnh ngôn ngữ, không xét tới h́nh thức thể hiện.


Sau đây chúng ta thử t́m ra một số h́nh ảnh biểu tượng trong hội họa Trung Hoa. Trước tiên, khi nói đến tranh thủy mặc th́ chúng ta thường liên tưởng ngay đến tranh sơn thủy. Đây là một mảng đề tài đặc sắc trong hội họa Trung Hoa. Hai chữ sơn thủy có ư nghĩa triết lư thâm trầm của chúng, không chỉ đơn thuần sơn là núi non, thủy là sông nước.


Khổng Tử từng nói rằng: Kẻ trí vui chơi nơi sông nước, kẻ nhân vui chơi nơi núi non. Kẻ trí hiếu động, kẻ nhân trầm tĩnh. Kẻ trí vui vẻ, kẻ nhân trường thọ. Sông nước trôi chảy, linh động biến dịch không ngừng, t́m về trùng dương mênh mông. Sự trôi chảy không ngừng này tượng trưng bản thể của Đạo. Khổng Tử có lần đứng trên bờ sông, nh́n nước chảy, giác ngộ lư lẽ ấy, nên ngài tán thán: Ôi, trôi chảy thế này, ngày đêm nó không hề ngừng nghỉ! Do đó, kẻ trí tuệ thấu đạt lư lẽ của sự vật, linh hoạt tiến triển măi không ngưng trệ, cũng linh động như bản tính của nước. Kẻ nhân ái yên ổn với nghĩa lư mà dày dặn kiên cố vững bền, cũng tĩnh như bản tính của núi. Động và tĩnh nói về bản thể, mà vui vẻ trường thọ là nói về hiệu quả đạt được.



Người nhân ái và trí tuệ xưa nay hiếm. Trong cơi trần ai, ngay bản thân kẻ nhân và trí cũng không biết t́m đâu ra bạn tri âm tri kỷ. Không biết t́m đâu, nên mượn tranh sơn thủy để kư thác tâm t́nh, gởi gắm nỗi niềm. Nhưng triết lư của sơn thủy có lẽ là do giới thưởng ngoạn đời sau gán cho. Thuở xa xưa, chắc ǵ các họa gia đă nghĩ như thế.






Chủ đề nổi bật thứ hai là hoa điểu. Về hoa, các văn nhân Trung Quốc thường gán cho từng loại hoa một đức tính, một ư nghĩa tượng trưng văn học nào đó, và các họa sĩ đă tiếp thu toàn bộ những quan niệm này. Chẳng hạn Chu Đôn Di đời Tống từng nói: Trong các loài hoa, cúc là kẻ ẩn dật, mẫu đơn là kẻ phú quư và sen là bậc quân tử vậy. Quan niệm cúc là kẻ ẩn dật có lẽ phát xuất từ Đào Tiềm tức Đào Uyên Minh đời Tấn, một thi sĩ vĩ đại, chán cảnh làm quan luồn cúi, treo áo từ quan, hưởng thú điền viên, vui cảnh nghèo, thích uống rượu chơi cúc và nhàn du. Người đời khen ông là bậc ẩn dật cao khiết. Trong bài Ẩm tửu của ông có nhắc đến hoa cúc: Hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nh́n núi Nam. Người ẩn sĩ này uống rượu ngắm cúc để quên cảnh náo nhiệt, trầm luân trong đời, cho nên hoa cúc cũng là biểu tượng của bậc quân tử ẩn dật lánh đời vậy. Đào Tiềm từng thốt rằng: Hoa cúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên t́nh buồn, lánh xa t́nh đời.


Người giàu có ưa chuộng màu sắc lộng lẫy rực rỡ của mẫu đơn. Mẫu đơn là loài hoa quư hiếm, chỉ có bậc quyền quư đài các mới chơi hoa này. Cho nên mẫu đơn là biểu tượng của sự giàu sang phú quư.


Hoa sen là cốt cách của bậc quân tử. Đẹp và ngát hương, gần bùn mà chẳng tanh bùn. Dù cuộc đời ô trọc, nhân t́nh ấm lạnh, bậc quân tử vẫn giữ được tiết tháo của ḿnh, thơm tho và tinh khiết như đóa sen kia.


Cổ nhân gọi tùng, trúc, mai là ba người bạn mùa lạnh (tuế hàn tam hữu), bởi v́ ba loại cây này dù mùa sương tuyết vẫn tươi tốt trong khi những loại cây khác hầu như cằn cỗi héo hon. Tính chịu lạnh của tùng, trúc, mai tượng trưng đức tính nhẫn nại của người quân tử, tự cường măi không thôi, luôn trau giồi tài đức trước nghịch cảnh cuộc đời.


Mai, lan, cúc, trúc thường được gộp chung thành một cụm, xem như biểu tượng của bậc quân tử, nên cũng được gọi là tứ quân tử (bốn người quân tử). Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ư chí thách đố thiên nhiên. Hơn hai ngàn năm trước, thi nhân Khuất Nguyên thậm chí c̣n so sánh hoa lan với mỹ nhân rằng: Thu lan ơi mườn mượt, cọng tía cùng lá xanh. Đầy nhà toàn người đẹp, riêng với ta đưa t́nh. Hoa cúc trác việt siêu phàm, là biểu tượng của bậc quân tử ở ẩn mà trên đây đă đề cập. Đời Tống có ẩn sĩ Lâm Bô yêu hoa mai đến độ không cần có vợ con, chỉ chuyên tâm trồng hoa mai và nuôi hạc. Người đời tặng cho ông câu mai thê hạc tử (hoa mai là vợ, chim hạc là con). Yêu trúc có thể kể đến Tô Thức. Ông nói: Thà ăn không có thịt chứ không thể ở thiếu trúc.


Không chỉ hoa, mà quả cũng mang ư nghĩa biểu tượng nữa. Chẳng hạn quả đào tượng trưng sự trường thọ; thí dụ tranh Đào hiến thiên xuân (đào dâng ngh́n tuổi xuân) vẽ ông lăo cầm quả đào. Quả lựu tượng trưng cho sự đông con cái; thí dụ tranh Lựu khai bách tử (quả lựu mở sinh trăm con) vẽ ông lăo cầm quả lựu bóc dở, cho trông thấy hạt. Quả phật thủ tượng trưng cho phúc; thí dụ tranh vẽ quả phật thủ (phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) là ngụ ư: đa phúc, đa thọ, đa nam tử. Quả quít tượng trưng sự tốt lành (cát). Ngay trong đời sống hằng ngày người ta cũng thích biếu xén nhau quít.


Hoa thường được vẽ chung với điểu. Chim hạc tượng trưng cho sự trường thọ. Người Trung Quốc tin rằng hạc sống đến ngàn năm (hạc thọ thiên tuế). Hạc thường được vẽ chung với cây tùng (cũng ngụ ư trường thọ), nên tranh Tùng hạc diên niên (tùng và hạc sống lâu) được dùng để chúc thọ.


Thi nhân cho rằng chim én là loài chim nhỏ có cảm t́nh, mùa thu và mùa đông bay đi t́m cái ấm áp của miền nhiệt đới và mùa xuân quay về tổ cũ. Xuân phong yến hỉ (chim yến vui trong gió xuân) mô tả một đôi én về tổ trong cành liễu xanh phất phơ hay cành đào hồng thắm. Một bức tranh với đôi én hoặc một bức tranh với cặp hồng nhạn (vịt trời) hay đôi uyên ương bơi lội trong ao sen chính là biểu tượng t́nh nghĩa vợ chồng, gia đ́nh khang lạc.


Tranh Thập toàn báo hỉ vẽ mười con chim khách đậu trên phiến đá và trên cây tùng hót líu lo báo tin mừng (chim khách được tin tưởng là báo điềm lành nên tục gọi nó là hỉ thước), tranh để chúc sự nghiệp thành công.


Dưới cội mai vàng (biểu tượng của phúc) là đôi chim cun cút hoặc một đàn gà con cùng gà trống gà mái cũng là biểu tượng của ân nghĩa tào khang, quan hệ nhân luân. Tranh phụ đề ân nghĩa tại sinh tiền (ân nghĩa đối với nhau lúc c̣n sống) thật là cảm động và thâm trầm biết bao! Con gà mái với bầy con tượng trưng cho gia đ́nh đông đúc, đầm ấm.


Con công tượng trưng cho sự b́nh an thịnh vượng. Chim phượng (thường gọi gộp là phượng hoàng, thực ra phượng là con trống, hoàng là con mái) là linh điểu, tương truyền chim phượng xuất hiện là thánh nhân ra đời. Nhưng chim loan và chim phượng th́ tượng trưng duyên nợ vợ chồng. Tranh Loan phụng ḥa minh (chim loan và chim phượng ḥa chung tiếng hót) ngụ ư sự ḥa thuận êm ấm của vợ chồng.


Một số động vật cũng có ư nghĩa biểu tượng. Rồng, một con vật huyền thoại, là biểu tượng của vương quyền. Kỳ lân (kỳ là con đực, lân là con cái) tượng trưng nhân ái và thái b́nh. Con rùa (quy) cũng là thần vật, tương truyền nó sống tới ngàn năm, nên tượng trưng sự trường thọ.


Ngựa là một chủ đề quen thuộc. Dân gian cho rằng ngựa có đức tính trinh tiết, ư thức rơ quan hệ truyền chủng, không vi phạm cái mà luân lư loài người gọi là loạn luân. Như Dịch Kinh từ đời Chu đă ca ngợi là Tẫn mă chi trinh (đức trinh tiết của ngựa cái). Ngựa c̣n có đức tính trung thành, một đức tính mà Nho gia rất coi trọng trong các mối quan hệ xă hội. Tuy nhiên, trong thực tế, ngựa từ thời xa xưa có giá trị rất cao. Trong chiến tranh ở Trung Quốc cổ đại, ngựa giữ vai tṛ rất quan trọng, có thể gọi là nền tảng của sức mạnh quân sự. Các kỵ binh du mục trên lưng các chiến mă thần tốc và dũng mănh luôn là mối kinh hoàng cho binh quân của Trung Quốc. Trong giao thông vận tải th́ ngựa là phương tiện nhanh chóng và hữu hiệu. Từ đời Thương người ta đă biết đánh xe ngựa tới nơi xa xôi để buôn bán. Ngoài giá trị quan trọng của ngựa trong vận tải và quân sự, người ta c̣n t́m thấy giá trị y học của ngựa, được mô tả trong Bản thảo cương mục (xuất bản 1596) nữa. Cứ xem đời nay mà xét, ngày nay người ta xem những xe hơi hiện đại sang trọng là biểu tượng của giàu có th́ ngày xưa ngựa chính là biểu tượng đó. Nói chung, ngựa xuất hiện trong tranh Trung Hoa như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Thí dụ bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là Mă đáo thành công thể hiện qua một bầy ngựa phi nước đại gió bụi mịt mù. Nguyên ư câu này là Kỳ khai đắc thắng, mă đáo thành công (Cờ phất [làm hiệu th́] chiến thắng, ngựa quay về [báo tin] thành công). Ngày xưa khi xuất binh phải phất cờ hiệu, mà cờ đă phất rồi th́ phải chiến thắng; tướng soái khi lấy đầu tướng giặc, chiến mă quay về tất báo tin thành công. Ư nghĩa câu mă đáo thành công ngày nay chỉ c̣n tượng trưng là tốc chiến tốc thắng. Và một bức tranh mă đáo thành công làm quà khai trương cho một cửa hiệu chỉ đơn giản tương tự như là khai trương hồng phát (mở cửa tiệm th́ phát đạt lớn).


Có những vật tưởng như b́nh thường nhưng cũng có ư nghĩa đặc biệt, thí dụ con cóc tía tượng trưng cho sự giàu có, can đảm, và cái ǵ quư báu, khó kiếm ra được. Con bướm tượng trưng sự trùng điệp. Con mèo tượng trưng sống lâu. Con cá chép (cá hóa long, cá vượt vũ môn) tượng trưng thi đỗ,...


Rồi sự kết hợp nhiều thứ khác nhau cũng có ngụ ư tổng hợp. Thí dụ hoa kết hợp với điểu, thảo trùng, cá đá (tượng trưng sự vững chắc) và các khí vật khác (thí dụ cái b́nh hoa, ngụ ư an b́nh) làm tăng thêm thi ư cho tranh, thường đó là lời chúc nguyện cát tường.


Mẫu đơn phối hợp với cá lội là biểu tượng Phú quư hữu dư (phú quư dư dật) là lời chúc nguyện tốt đẹp vào ngày đầu năm. Mẫu đơn vẽ chung với khổng tước (chim se sẻ) mang tên Khổng tước khai b́nh là tranh chúc mừng khai trương cửa tiệm. Hoa xuân điểm thêm vài cánh bướm, tạo sinh động cho tranh. Bướm ngụ ư là trùng điệp. Tranh mẫu đơn điểm thêm cánh bướm ngụ ư phú quư trùng điệp. Hoặc trên cánh hoa vẽ con dế, cho ta h́nh dung tiếng thu đang về với tiếng nhạc râm ran đâu đây.



__________________
My Thuat Viet Nam


Viễn Khách

Status: Offline
Posts: 83
Date:


Như trên đă nói, thông qua ngôn ngữ (nhất là từ ngữ đồng âm hay cận âm) người ta sẽ liên tưởng h́nh vẽ này đến một sự vật nào đó với ư nghĩa biểu tượng nhất định trong tâm thức chung của mọi người.


Bông hoa, chữ Hán là hoa phát âm hua gần giống chữ hoa (vinh hoa) huá.


Hoa sen, chữ Hán là liên phát âm lián giống như chữ liên (liên tục) lián; hoặc chữ Hán là phát âm giống như chữ ḥa (ḥa hợp) .


Quả thị hay cành thị, chữ Hán là thị phát âm sh́ giống như chữ sự (sự việc) sh́.


Quả lựu, chữ Hán là lựu phát âm liú giống như chữ lưu (trôi chảy, lưu truyền) liú.


Cây phong, chữ Hán là phong phát âm feng giống như chữ phong (ban phong) feng.


Cây ngô đồng, chữ Hán là đồng phát âm tóng giống như chữ đồng (cùng với) tóng.


Cành mai, chữ Hán là mai phát âm méi gần giống chữ mỗi (mỗi thứ, mỗi người) mi.


Cành trúc, chữ Hán là trúc phát âm zhú gần giống chữ chúc (chúc tụng) zhù.


Con gà, chữ Hán là phát âm ji gần như chữ cát (tốt lành) .


Con dơi, chữ Hán là bức phát âm giống như chữ phúc (hạnh phúc) . Vẽ 5 con dơi tức là ngũ bức, phát âm wu fú giống như ngũ phúc. Con dơi vẽ lộn ngược tức là đảo bức, phát âm dào fú giống như đáo phúc (phúc đến).


Con mèo, chữ Hán là miêu phát âm máo gần giống chữ mạo (già 80 tuổi) mào.


Con bướm, chữ Hán là điệp phát âm dié giống như chữ điệt (già 70 tuổi) dié và chữ điệp (trùng điệp) dié.


Con hươu, con nai, chữ Hán là lộc phát âm giống như chữ lộc (bổng lộc) .


Con vượn, con khỉ, chữ Hán là hầu phát âm hóu giống như chữ hầu (tước hầu) hóu.


Cái quạt, chữ Hán là phiến phát âm shàn giống như chữ thiện (tốt lành) shàn.


Ống sáo, chữ Hán là sinh phát âm sheng giống như chữ sinh (sinh nở) sheng và chữ thăng (bay lên) sheng.


Cái độc b́nh, chữ Hán là b́nh phát âm píng giống như chữ b́nh (b́nh an) píng.


Cái mũ, cái măo, chữ Hán là quan phát âm guan giống như chữ quan (ông quan) guan...


Phối hợp nhiều thứ với nhau, tranh vẽ mang ư nghĩa biểu tượng tổng hợp. Thí dụ như:


Tranh vẽ quả đào với 5 con dơi ngụ ư Ngũ phúc lâm môn. Ngũ phúc là: phú (giàu), thọ (sống lâu), khang ninh (khỏe mạnh), du hiếu đức (yêu nhân đức), khảo chung mệnh (chết êm ái).


Tranh vẽ quả phật thủ với con bướm ngụ ư sống lâu đến 70-80 tuổi, v́ quả phật thủ tượng trưng cho thọ hay phúc, con bướm (điệp) ngụ ư già 70 tuổi (điệt) hay trùng điệp (điệp), tức là phúc thọ trùng điệp.


Tranh vẽ quả phật thủ (phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) ngụ ư đa phúc, đa thọ, đa nam tử.


Tranh vẽ quả phật thủ, quả đào, quả lựu với 9 miếng ngọc như ư ngụ ư tam đa cửu như nghĩa là chúc cho phúc thọ, con cháu đầy đàn, bền vững.


Tranh vẽ quả lựu đă bóc vỏ một phần để lộ hạt ra ngụ ư lựu khai bách tử (lựu mở ra sinh trăm con).


Tranh vẽ quả lựu với 5 cậu bé con ngụ ư mong cho con cái sau này đều hiển đạt như 5 con của ông Đậu Yên Sơn đời Tống.


Tranh vẽ quả lựu (ngụ ư lưu truyền) với cái mũ (ngụ ư tước quan), cái đai lưng (đái), cái thuyền (thuyền, đọc giống truyền) ngụ ư mong cho Quan đái truyền lưu (được phong quan tước nhiều thế hệ).


Tranh vẽ hai quả thị (ngụ ư sự việc) với ngọc như ư là mong Sự sự như ư (vạn sự như ư).


Tranh vẽ cây ngô đồng (cùng với) với con hươu (bổng lộc) và chim hạc (trường thọ) là ngụ ư Lộc thọ đồng lộc hạc (được bổng lộc và sống lâu như hươu, hạc).


Tranh vẽ chim hỉ thước (vui vẻ) đậu cây ngô đồng (cùng với) là ngụ ư đồng hỉ (mọi người cùng vui vẻ).


Tranh vẽ đứa trẻ cỡi trên lưng con kỳ lân tay cầm bông sen và ống sáo là ngụ ư Liên sinh quư tử (liên tiếp sinh quư tử).


Tranh vẽ 4 đứa trẻ: đứa cầm cành táo (sớm), đứa cầm ống sáo (sinh), đứa cầm cái ấn quan văn, đứa cầm cái kích quan vơ là ngụ ư mong: sớm sinh con cái sau này thành quan văn hay quan vơ.


Tranh vẽ đứa trẻ ăn mặc sang trọng (phú), cổ đeo cái khánh (khánh, hiểu là may mắn hạnh phúc) đang ngắm bầy cá vàng (ngư, hiểu là dư thừa) là ngụ ư mong: giàu có, đông con, hạnh phúc có thừa.


Tranh vẽ chim hỉ thước đậu cành mai (mọi người) cành trúc là ngụ ư mong cho mọi người đều vui vẻ.


Tranh vẽ trúc mai ngụ ư mọi người may mắn.


Tranh vẽ mai, trúc với con mèo và con bướm là ngụ ư mong mọi người sống lâu đến 70-80 tuổi.


Tranh vẽ mẫu đơn với con gà ngụ ư phú quư cát tường.


Tranh vẽ con khỉ trèo cây phong có cái ấn cột vào cành cây ngụ ư ấn phong hầu, tức là được thăng quan tiến chức nói chung...


Tóm lại, ư nghĩa biểu tượng của loại tranh này cho thấy ba chủ ư của tác giả: gởi gắm ư chí; ước nguyện mọi tốt lành cho bản thân; và cầu chúc hạnh phúc cho người khác. Với chủ ư thứ ba, các bức tranh này thường được người ta làm quà tặng nhau vào những dịp mừng thọ hay những dịp đặc biệt như ngày đầu năm, mà những lời chúc nguyện rồi sẽ như chồi non lộc mới nảy nở thành những đóa hoa rực rỡ tươi thắm trong tiết xuân sang.


                                                                                                              L.A.M



__________________
My Thuat Viet Nam
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard