Ca dao Việt nam ghê gớm thật, chỉ có một câu mà thâu gọn tất cả tinh hoa Cổ học, tư tưởng Triết học của mấy ngàn năm văn hiến Á đông! ... Đũa có đôi, đích thị là nói đến nguyên lí nhị nguyên rồi c̣n ǵ nữa! Tức là thuyết Âm Dương Tứ Tượng Ngũ hành, Vô cực Thái cực, Đạo giáo Đạo gia, tuti quanti...
Trong tạp luận về Đũa trong Hậu Ăn tục nói phét trước đây, khi viết đến nguyên lí nhị nguyên (Dualité) để nói nhà ở Mỹ cái chi cũng có cặp: 2 tủ lạnh, 2 máy rửa chén, 2 mai kờ rô wây (microwave), 2 máy giặt, 2 máy sấy, cho đến máy tính điện tử cũng chíp lưỡng lơi dual-core chips, rồi th́ lũ mắc dịch chúng tôi lại mơ chuyện các cụ ngày xưa, ôi sung sướng, với nhị đại và tiểu lăo bà, và nhất là khi nêu lên đặc tính Tĩnh và Động của đôi Đũa, tôi đă muốn ba hoa chích cḥe Ăn tục nói phét dài dài thêm, nhưng sợ viết bài dài khô khan làm nản người đọc. Bữa nay lại nổi cơn thèm nói phét, bởi v́ nói phét, nói dóc, nói khoác là vô tội vạ, đâu có ai bắt bẻ được là nói đúng hay sai, mà cũng bởi v́ trước đó em đă trịnh trong thưa cùng làng là em ḷng ḍng nói phét mà!..Thôi th́ xin làng cho phép lại múa bút quèn tiếp tục ATNP thêm một keo nữa về đôi đũa. (a)
***
Văn hóa Đũa khởi từ Tân thạch khí th́ đại, đến đời Thương Trụ đă thấy có đũa ngà. Tư tưởng của Đạo giáo 道教 hay Đạo gia 道家bắt đầu phổ biến thời Chu Triều (1076-771 trước Công nguyên). Kinh Dịch 易經 có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hi (伏羲 Fú Xī ), có lẽ từ 2852-2738 TCN. Theo lịch tŕnh đó, xin thiển nghĩ là phát minh đũa chắc đă dựa trên một trong những suy luận và mở mang tư tưởng của thuyết Âm Dương 陰陽 Ngũ Hành 五行 song song với chân lí Kinh Dịch và Đạo giáo! Đũa, khác phuộc xét đơn thương độc mă, đôi đũa gồm 2 phần, một cây tĩnh Âm và một cây động Dương; đũa là máy (điều khiển) đầu tiên mà nhân loại đă phát minh để nhận thức lư luận nhị nguyên và vượt đến nguyên lí vĩnh cửu Âm Dương.
Cổ nhân phát minh ra đũa không phải chỉ để đưa đồng loại từ cấp ăn tục lên cấp ăn thanh, nhưng phát minh ra đũa đồng thời các cụ đi sâu vào một nhận thức lớn lao: Vũ trụ quan. Vũ trụ luôn luôn với hai thể, ánh sáng đối tối tăm, động đối tĩnh, tiếng ồn đối yên lặng... Thế nhưng như văn chương dân gia đă dẫn, không thực làm sao mà vực được đạo ? Vậy th́ những khi khơi lửa, gạt tàn, gom tro, rồi th́ cắt, xé, phân, cặp, kẹp, gắp, lùa, và các thực vật,...và sau khi ăn no ngủ kỹ, cổ nhân dần dà suy ngẫm đến tính của hai cây đủa Tĩnh và Động để đi đến một nhận thức về hai lực đối ngẫu 对偶 , nhị nguyên 二 元 di vật (Dualité). Vậy có thể nói Đũa (đôi) hiện thực hóa cái khái niệm mầu nhiệm luận lí Nhị Nguyên Sơ khai (la Dualité Première) và Đũa từ khái nghiệm này đă đưa nhân loại tới khái niệm trừu tượng (abstraction) tối quan trọng: Nguyên lí Âm Dương. Đũa tượng trưng mật thiết cho ba nguyên lí căn bản trong Kinh Dịch: primo thực thể giản dị (hai cây tre, trúc), secundo mềm dẻo trong cử động tức biến dịch (đũa trong bàn tay năm ngón), tertio từ thượng cổ tới nay vẫn không thay đổi tức bất dịch (qua cả mấy ngàn năm cũng chỉ là hai cây). Biến dịch nghĩa sự sống, bất dịch nghĩa luật tạo hóa của sự sống, giản dị đưa biến dịch thành bất dịch: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch Hệ từ hạ truyện). Đũa tượng trưng căn bản cho tuần hoàn trong vũ trụ, đũa động tức Cương là dương, đũa tĩnh tức Nhu là âm, âm dương thúc đẩy nhau mà sinh ra biến hoá (theo Dịch Hệ Từ Thượng Truyện).
V́ tính chất đối xứng, thiển nghĩ trong bát quái, đũa biểu tượng cho quẻ Ly 離 (I:I) bản chất hỏa 火 và quẻ Khảm 坎 (:I:) bản chất nước 水. Ly th́ sáng, Khảm th́ đầy; Ly lửa, Khảm nước, hai yếu tố ba dzích trong nghệ thuật nấu nướng của hoàn vũ! Đạo Cao Đài đặc biệt đưa 2 quẻ này vào Trung Thiên Bát Quái (xem chú thích d): Trung Thiên nói về ngũ hành và âm dương là hai yếu tố quan trọng trong sinh hóa muôn loài, tức là trung nữ (Ly) và trung nam (Khảm) làm chủ trong thời Tam Kỳ Phổ Độ nhằm lấy sức sống trẻ đang lên của Ly Khảm mà tạo thời cải thế!
Đũa từ nguyên thủy, đă là nền tảng cho các hệ thống tư duy(b) của loài người, trên khắp địa cầu. Nguyên lí Âm Dương, từ thời đũa, đă trở thành Chân lí toàn năng (la Vérité Universelle). Sau đây là những chi tiết mục ATNP.
Hà đồ (c) của Âm Dương Ngũ Hành có kư hiệu 10 số, đếm bằng các chấm đen trắng xếp thành 2 ṿng trong ngoài, ở giữa số 5 và 10 (5 chấm trắng - số 5, 5 chấm xếp thành h́nh chữ thập, tức số 10), số 10, 1-0 ghi ư (signe idéographique) nguyên lí Âm Dương. Thuở xưa thuyết PiTaGo nói số 10 là số hoàn toàn (nombrre parfait) của bộ tứ Tétractys, trong khi người La Mă viết chữ thập thành X, nửa X là V tức số 5. Dân Ả rập, cũng như Ai cập và Ấn-Arian (Indo-Aryens), số 10 viết 1 và 0; nửa số 0 cộng số 1 tách 2, biến thành số 5. Đây là sự trùng hợp Đông Tây đầu tiên phát khởi từ nguyên lí nhị nguyên.
H́nh trên: Hà đồ đời Thương, số Dương (trắng) nghĩa số Cơ (Trời): 1-3-5-7-9, số Âm (đen) tức số Ngẫu (Đất) 2-4-6-8-10. Ở giữa, số 5 và chữ Thập, tức số 10, là bản chất của Âm dương. Hà đồ này cũng là ư niệm của Ngũ hành, tỷ như Hành thủy (1-6) ở Bắc, Hành Hỏa (2-7) ở Nam, Hành Mộc (3-8) ở Đông, Hành Kim (4-9) ở Tây và Hành Thổ (5-10) ở Tâm (trung). Ngũ Hành tương tác lẫn nhau theo Nhị Nguyên đối xứng Âm Dương, tức cơ chế Tương Sinh (hành gần nhau) và Tương Khắc (hành cách nhau). Ng̣ai Hà đồ, c̣n có Lạc thư (Xem chú thích e)
Các cụ Pi Ta Go kư hiệu và gói ghém vũ trụ vào bộ tứ Tétractys, đó là một tam giác hoàn toàn mà mỗi cạnh giá trị 4, và tổng cộng là 10. Họ đi từ số 1 là điểm (monade), đến số 2 là đường (dyade) giữa 2 điểm, số 3 tam giác gồm 3 đường 3 điềm (mặt phẳng, le plan), đến số 4 h́nh tháp pyramide 6 đường 4 điểm (tổng cộng là 10, số hoàn toàn). Tetractys gồm số 1, điểm (monade), nghĩa thiện (âm); số 2 đường (dyade) nghĩa ác (dương), là tượng trưng cho vũ trụ gồm 10 tinh cầu. Thuyết PiTaGo không có nhận thức rơ rệt về Âm Dương, nhưng nội dung các luận đề phản ảnh hoàn toàn chân lí nhị nguyên là cơ cấu của vũ trụ, chẳng hạn khi chia chẵn lẻ cho các số, khởi sự từ 1 và 2, Một và Hai không thể được xếp hạng chẵn hoặc lẻ, v́ 1 là nguyên lí sinh (principle engendrrant), 2 là số 1 "bù" để nối dài, v́ 2 chỉ có được khi có 1 cộng 1. Do đó phải suy nhị nguyên 1, 2 là căn bản cơ cấu vũ trụ của PiTaGo, nhưng ngược đời, v́ thuyết Nhị nguyên ta nói số 1 là Dương (thiện) và 0 là Âm (ác). Chuyện ngược đời này tương tự với ư niệm Nhị nguyên thời cổ Ai cập.
Trong chuyện thần thoại cổ Ai cập, số 1 biểu tượng nữ thần Isis và số 0 chỉ Orisis. Sau khi Orisis bị Seth giết chết cắt ra từng mảnh, Isis ráp lại thân thể Orisis nhưng thiếu dương vật, nên nữ thần thay thế bằng dương vật đất sét và thổi vào đó một nguồn sinh khí. Nữ thần đồng trinh Isis giao cấu với thần linh (esprit) Orisis, sinh hạ Horus. Do đó trong truyền thống Ai cập, số 1 là Dương với dáng nữ thần Isis (Nữ, mái, cái) và số 0 là Âm với dáng Ông Thiện (Être Bon) Orisis (Nam, đực, trống). Kết hợp giữa Isis với Orisis sinh Anhk, dấu hiệu tuợng h́nh (Signe Hiéroglyphique) biểu hiệu sự Sinh sống vĩnh cữu. Xin lưu ư: Số 1 ư là Dương với nữ thần Isis và số 0 ư Âm biểu hiệu cho nam thần Orisis, cho ta thấy quan niệm Âm Dương rơ rệt, nhưng ngược đời!
Bộ Tứ Tétractys
Isis-Orisis-Horus
Theo Văn hóa tín ngưỡng thờ Dương Vật (le Culte du Phallus) Ấn-Arian (Indo-Aryens) cũng có thuyết nhị nguyên: Số 1 tượng trưng "linga" hay dương vật, số 0 tượng trưng "yOni" hay âm vật. Thần Shiva (Śiva) là một trong ba ngôi trimūrti, Shiva, Brahma và Vishnou. Dương vật Phallus tức "lingam" tượng trưng nhân tính của Shiva (vợ là Pârvatî), Shiva là Thượng đế của tín ngưỡng thờ Dương vật.
Shiva và Pârvatî
Linga Dương Vật và Yoni Âm vật
Trong Kinh Dịch, Âm Dương là hai trạng thái Tĩnh (thụ) và Động (hoạt) của Vũ trụ. Theo thuật ngữ, Âm phải viết trước Dương. Âm là Vũ trụ chưa hiện h́nh (Univers Non-manifesté) Bản thể chưa hiện sinh hay Phản thể (Non-Être), trong khi Dương là trạng thái hoạt động của Vũ trụ và Bản thể (Univers Manifesté et Être), nên Âm có trước Dương. Nhưng Âm không toàn Âm và trong Dương có Âm, và ngược lại. Vũ trụ có cặp Âm Đực và Cái, cũng như có cặp Dương Đực và Cái. Theo nghĩa này, có thể cắt nghĩa Isis là một liền bà Dương (Cái) hoạt động và Orisis là một liền ông Âm (Đực) thụ động. Để có Âm Dương ḥa hơp cân bằng, phải có liền bà hoạt động giao cấu với liền ông thụ động hoặc ngược lại. Nhờ có quan niệm này, mà dân cổ Ai cập luyện thuyết Âm Dương ngược đời không bị tầu hỏa nhập ma! Tính đổi lẫn (interchangeabilité) Âm Dương thể hiện thường ngày với sự xử dụng đôi đũa, tùy theo vị trí của cây đũa trong tay, mà nó có bản thể Âm hay Dương.
Trong Thánh Kinh, Thượng Đế hiện dưới dạng Nam Nữ kép đôi (accouplés) IEVE. IEVE do 2 chữ Eâbrơ IOD (Thuần Nam) và EVE (Thuần Nữ). EVE c̣n đọc là Évohé. IEVE sau trở thành IAHVÉ, JAHVÉ hay Jéhovah, tức Đức Chúa Cha. Từ ư niệm này mà nẩy nở quan niệm thần học Tam Vị Nhất Thể (Xem dưới đây)
Người Ấn-Arian tượng trưng lư Nhị Nguyên bằng ṿng kiềng con Rắn Cobra (Thần Nữ Bouto) Đầu nuốt Đuôi (Pasha de Śiva), khoảng thế kỷ 15 TCN; ở dạng b́nh thường có đầu đuôi duỗi thẳng, nó là Linga tức số 1 Dương Vật, khi cuộn ṿng kiềng đầu nuốt đuôi, đó là Yoni tức số 0 Âm Vật. Qua thời đại Phật giáo Pasha de Śiva được thay thế bằng Đại pháp ấn 大法 印 của Đức Phật (Geste iconographique de raisonnement, vyakhyana mudra), ngón cái và ngón trỏ liền thành h́nh tṛn ( số 0) có nghĩa Âm, trong khi ba ngón khác đứng thẳng (số 1) có nghĩa Dương !
Pasha de Śiva (Ouroboros ουροβοροs)
Những thí dụ lượm nhặt rải rác, tŕnh bày trên đây, chứng tỏ một tương đồng giữa nguyên lí Luỡng Nghi (Nhị Nguyên Sơ Khai) và các nền tảng Văn minh Tôn giáo trên toàn cơi thế giới từ đông sang tây.
Hệ Từ Thượng Truyện viết nguồn gốc của Vũ Trụ: Vô Cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Luỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng Ngũ Hành, Ngũ Hành sinh Bát Quái, Bát Quái là gốc của 64 quẻ Kinh dịch. Như nói trên đây, từ phát minh Đũa, nhân loại nói chung, qua quá tŕnh tiến hóa, đă đi đến một chân lí toàn năng mà nền móng là lí luận nhị nguyên như đă thấy. Nhưng chỉ có dân tộc Á đông, v́ đă phát minh và xử dụng đũa, nên mới có khả năng tổng quát và trừu trượng hóa lí luận này để hoàn toàn nhận thức được vũ trụ qua lư thuyết Âm Dương Ngũ Hành (Thái Cực Đồ) và Kinh Dịch. Trong khi đó phái PyTaGore muốn h́nh dung vũ trụ bằng những con số cứng ngắc (rigides), rồi sau đó Triết học phương Tây tiến triển trong ư thức hệ với phát sinh văn minh cơ khí, đă đi theo lô gíc Đề Cạc cũng cứng ngắc, không đủ ư niệm để phương thức Biến dịch trong Bất dịch và Âm trong Dương, vice versa... Cũng chỉ v́ đôi đũa khác phuộc xét! (d)
Nguyên lí Âm Dương biểu tượng rơ rệt trong Thái Cực đồ 太極 圖 (Tàijítu). Chu Dịch (e) viết Âm Dương là nguồn gốc vạn vật, nên có thể nói rằng nguồn gốc của Vũ trụ là Nhị nguyên chất chứa trong Thái Cực(Thái Cực sinh lưỡng nghi...).Thái Cực, nôm na gọi Đỉnh Tối Cao (Faîte Suprême), chính là hiện thể của Vô Cực lúc Phản (Vô) Thể Non-Être khu biệt (différenciation) thành Bản Thể Être.
Vật lư hiện đại cho nguồn Vũ Trụ khởi từ Big Bang, ư niệm này tương đồng với phát sinh của Thái Cực, khi Vô Cực sinh Thái Cực, những cá thể nhị nguyên, hạt và phản hạt, sóng và phản sóng, vật chất và phản vật chất, lực hút và lực đẩy,... được giải phóng (passage du Non-Être à l'Être), tương xứng với Lưỡng Nghi, sinh Âm Dương trong Thái Cực. Nhưng Mẹ đẻ của Tất cả là Đạo, tức Vô Cực (Absolu). Lăo Tử dạy: Đạo (Vô Cực) sinh Một (Thái Cực), Một sinh Hai (Lưỡng Nghi), Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật...Chu Đôn Di đời Tống đă hiếu Đạo là Nguồn mang tính Tĩnh, chứa đựng những ǵ chưa phát lộ, khởi thủy tiềm phục. Nhưng Đạo tức Vô Cực (Absolu), nghĩa không có tận cùng, không giới hạn, không thể định nghĩa được, không chỉ định được (Inconcevable, Inommable), chỉ có thể hiểu Đạo hằng có, vô thuỷ vô chung, trống rỗng, tịch lặng, không h́nh không tướng, một khối mờ mịt, hỗn độn, đặc biệt là nó đơn giản vô cùng, vượt ra ngoài cả suy nghĩ của lư trí (Intelligence humaine). A. Tanon Viết: L'Absolu était tel que nous ne pouvons ni concevoir en son essence, ni nommer d'un nom quelconque qui lui confère une propriété, encore moins une substance! Cụ Lăo nói thật rơ ràng: Đạo trống không, nhưng đổ vào măi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật ( 道沖,而用之或不盈。淵兮,似萬物之宗 Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông). Rồi c̣n lại kỹ lưỡng dặn ḍ: Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường nghĩ. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật ( 道可道,非常道 。名可名,非常名。 無名天地之始,有名萬物之母 。Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu).
Khi Thái Cực sinh Âm Dương, không phải sinh 2 yếu tố riêng biệt. Toàn Âm toàn Dương không thể tồn tại, v́ không thể là một tổng thể tức Thái Cực. Tỷ như Dương là Nam, Âm là Nữ, thế như trong thể xác Nam có xương (Dương) và kinh mạch (Âm), lục phủ là Dương mà ngũ tạng lại là Âm. Âm Dương là giao ḥa tương tác, không bao giờ không tồn tại, tuy đối lập nhưng không triệt tiêu nhau, khi yếu tố này mạnh th́ yếu tố kia yếu, nhưng không bao giờ suy đến cạn kiệt. Người Ấn-Arian có Prakriti, tức Thể chất (Matière) cùng ư niệm với Âm, và Perusha, tức Thần linh (Esprit) cùng ư niệm với Dương.
Hai thể trong một của Âm hay Dương (formes doubles de la dualité), sinh Tứ tượng. Bốn thể Thái Dương 太 陽 (Yang Majeur - Mâle), Thiếu Dương 少陽 (Yang Mineur - Femelle), Thiếu Âm 少陰 (Yin Mineur - Mâle) và Thái Âm 太陰 (Yin Majeur - Femelle) có thể có một tương đồng với Triết học phương Tây, khi nhận xét :
陽 男dương nam tức Thái Dương , Positif Mâle ou Mâle actif 陰 男âm nam tức Thiếu Dương , Négatif Mâle ou Mâle passif 陽 女dương nữ tức Thiếu Âm ,Négatif Femelle ou Femme Passive 陰 女âm nữ tức Thái Âm , Positif Femelle ou Femme Active
Và chuyện Cổ tích ai cập có thể viết Isis là Thái Âm và Orisis là Thiếu Dương. Nhưng triết lư Ai cập lại không có biến hóa Tứ tượng và văn hóa lại không có đũa. Thái dương là hai đũa ở thế động, tỉ dụ như đũa bếp đũa cả. Thiếu dương Thiếu âm là đũa 1 động một tĩnh hoặc một tĩnh một động như khi dùng để gắp, xé, phân thực vật như đă nói ở trên. Thái Âm, hai đũa đều tĩnh, dùng như th́a muỗng để và hay lùa thực vật vào miệng.
Mô h́nh Thái cực là một ṿng tṛn, gồm hai nửa, Âm đen Dương trắng. Thuở Vô Cực, tuy không chính xác (v́ như đă nói, vô cực không thể hiểu đặng), nhưng ráng tạm hiểu, hai phần Âm Dương chia hai, bằng 1đường kính của ṿng tṛn, để đồng hóa với h́nh ảnh Anhk Ai cập. Khi Vô cực biến thể thành Thái cực, đường kính biến thành đường chữ S chia Âm Dương ; chữ S này có chiều dài bằng nửa chu vi của ṿng tṛn Thái cực trong khi chiều dài đường viền (contour) của Âm (con cá đen) hay Dương (con cá trắng) th́ lại bằng chu vi của ṿng tṛn. Hai cá Âm Dương quện vào nhau là dấu Cancer 69, tổng cộng 6 và 9 là 15, tức 1,0 và 5, mà cũng là số 15 trong ma phương(f). Như vậy có thể nhận định ở đây cá đen Âm là Isis, cá trắng Dương là Orisis và đường chữ S (số 5) là Horus, con của Isis và Orisis. Và như vậy bản thể của Thái cực không phải là Hai (nhị nguyên) mà là Ba, đúng như lời Lăo Tử dạy: Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật! (Xem phần trên). Quan niệm Vũ Trụ này tương đồng với ư niệm Thiên Chúa 3 ngôi trong KiTô giáo, Tam vị nhất thể : Đức Chúa Cha, Đức chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Thái Cực
24 Tiết trong năm (Đọc bài Ăn Tết)
Mỗi cá trong mô h́nh Thái cực có 1 mắt, mắt Dương cho cá Âm và mắt Âm cho cá Dương ; lư luận nhị nguyên Âm Dương biến thành lí luận Tứ Tượng để có cân bằng, và theo sơ đồ này, đường phân chia S có vị trí số 5 sau Tứ tượng. Isis mang số 1, Orisis số 0, nên Horus con của 2 vị thần này là nửa số 1 và số 0, tức số 5! Mà số 5 là Ngũ hành. Kết luận: Thái cực sinh từ Vô cực là cấu trúc của Vũ trụ, có thể diễn đạt được bằng Nhị Nguyên Tam Bôi (Une Dualité à trois Facteurs) hay Tam Tài Ngũ Hành (Une Trinité Quintuple). Thành thử Âm Dương đi 2 lối khác nhau, Tam Tài Ngũ Hành (Dương, với Số lẻ) và Tứ Tượng Bát Quái (Âm, với Số chẵn).
Gần đây các ông các bà tai to mặt lớn Ta và Tàu kết luận là Khái niệm Âm Dương lấy nguồn gốc ở phương Nam, nghĩa là từ Dương Tử giang trở xuống, ngược với thuyết huyền thoại Phục Hy. Lư do là Triết lư Âm Dương rất gần với văn hóa nông nghiệp bởi hai yếu tố cặp (nhị nguyên - dualité) : cặp " cha-mẹ / vợ chồng " (Xin đọc lại câu ca dao Vợ chồng như đũa có đôi...) và cặp " đất-trời ". Cặp 1 là vấn đề sinh sản sống c̣n, cặp 2 trực tiếp liên hệ với miếng ăn nghĩa là sinh hoạt nông nghiệp. Như vậy, có lẽ dân Bách Việt (g) là dân tộc đầu tiên áp dụng nguyên lí nhị nguyên sơ khai vào văn hóa nhân loại, nhận thức này sau đó được " nhập cảng " vào văn hóa Hán với phần lớn dân tộc là du mục sống ở phía bắc sông Dương Tử. Người Bách Việt nặng đầu óc tổng luận, phát triển lư luận cấu trúc Vũ trụ từ số Dương 1 tức Tam Tài Ngũ Hành. Người Hán thiên về phân tích, dùng số Âm 0 để h́nh dung Vũ trụ theo Tứ Tượng Bát Quái.
Mấy chuyên kể trên ni chắc đúng đứt đuôi con ṇng nọc rồi c̣n ǵ. Lúc bé ở Thanh tôi hay nghe nói "Cụ Bà bữa ni đi cưới Vợ Lẽ cho Cụ Ông". Vợ Lẽ (vợ hai, nàng hầu, tiểu thiếp, Tiểu Lăo Bà, vv...). Đây là chắc là Vợ Lẻ (h), người Thanh đọc vợ lẻ thành vợ lẽ, v́ ở xứ Thanh dấu hỏi đọc thành ngă và ngă thành hỏi. Tỷ như họ nói: Lấy Đủa mời Vợ Lẽ ăn cơm! Lẻ đây, trong từ ngữ Việt là chẵn lẻ, lẻ loi, trong khi Lẽ là lư lẽ. V́ thế Cụ bà chịu đi cưới nàng hầu là một chuyện lẻ đôi, hoặc v́ theo thuyết Âm dương Vợ hầu được gọi là Vợ Lẻ (Lẽ) thuộc Thái Âm, một Âm Thịnh Positif Femelle ou Femme Active (như Nữ thần Isis) và vợ lẽ sẽ cai quản hết mọi chuyện trong gia cang ! Thanh Hóa là xứ giống như tôm cá ở sông hai nước (Nam Bắc Việt và Bắc trung Việt), nên chính tả ngôn ngử lộn xộn với hai dấu hỏi ngă, bởi v́ từ Nghệ An trở vô, dọng Trung ít khi phân biệt hỏi ngă rơ rệt! Cách đây ít lâu, đài BBC Việt ngữ có phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Hữu Loan, ông là người Thanh chính cống, nên các câu trả lời mang một hài âm (consonance) rất đặc biệt và thú vị, giống như khi qua Tây, nghe ông Tây bà Đầm nói tiếng Tây dọng Provencal (accent Marseillais)! Không phải thấy sang bắt quàng làm họ, nhà chúng tôi cũng có một mối giao t́nh với nhà Thơ tác giả bài Màu Tím Hoa Sim. Số là Người Vợ Mới Cưới trong bài thơ Màu tím hoa sim, chị Lê Đỗ Ninh, là bà chị họ con d́ con già với tôi, nên thuở thơ ấu, lúc chạy Tản cư, tôi đă lớn lên với những ấn tượng của thảm kịch đầy nước mắt này, và gần đây tôi trở lại Thị Long đi t́m lại những kỷ niệm "Qua những đồi sim / những đồi sim dài trong chiều không hết / Màu tím hoa sim / tím chiều hoang biền biệt..."
Phong tục dân gian nước ta quư trọng các số lẻ hơn số chẵn, đặc biệt là số chín, chín nút, số Hên! Trong Hà đồ các số lẻ 1-3-5-7-9 là số Dương (trắng) nghĩa là số Cơ (Trời). Trong thành ngữ ca dao, cặp bài trùng Ba-Bảy Năm-Bảy rất được thông dụng, và ư nghĩa nhiều khi cũng mơ hồ. Những cặp (xin tránh xài chữ cụm, tôi nghe vẫn chưa quen tai!) những từ ngữ này không có một phân tích định lượng nào rơ rệt, chỉ biết đó là số nhiều, ai hiểu sao cũng được. C̣n chuyện tại sao dùng cặp số lẻ (3-5-7 chứ không 4-6-8 như Ba Tàu) mà không dùng số chẵn, th́ xin chịu thua, tôi chưa t́m được giải thích thỏa đáng; ngoại trừ luận đề nói rằng Việt nhân ta ưu đăi số lẻ v́ đi theo đường lối suy luận Dương của Tam tài Ngũ Hành! Ngoài những thành ngữ thông dụng Ba mặt một lời, Tam sao thất bản, Ba vợ bảy nàng hầu...và nhất là phe ta lúc mô cũng nghĩ tới chuyện Đêm bảy ngày ba, vào ra chưa kể ; dân gian c̣n truyền tụng những câu ca dao rất thấm thiết, tỷ như:
Cành tre ba bảy cành tre, Phải duyên th́ lấy chớ nghe họ hàng.
Một liều ba bảy cũng liều Cầm bằng như trẻ chơi diều đứt dây.
Anh tiếc cho em cái phận má đào Tham đồng bạc trắng để gán vào cho chú tây đen Cái sợi tơ hồng ai khéo xe duyên Bức tranh tố nữ đứng bên ông tượng đồng Chị em ơi, ba bảy đường chồng...
Trên trời ba bảy ông sao Ông bổng tít lói ông cao tít mù.
Biết nhau ba bảy năm tṛn Như sông một dải ai c̣n dám hay.
Đàn bà năm bảy đàn bà Chồng dặn mua gà, đi mua quốc con Đàn ông năm bảy đàn ông Vợ dặn mua hồng đi rước cây non.
Đàn ông năm bảy đàn ông Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha Đàn bà năm bảy đàn bà Đem bỏ ra chợ kiến tha lại về.
Bắt ông tơ đánh sơ vài chục, Bắt bà nguyệt nếm mấy mươi hèo, Người ta năm bảy vợ theo C̣n tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!
Dầu chàng năm bảy mặt con Thiếp đôi ba đứa vẫn c̣n nhớ nhau Hai tay cầm đôi ống tơ Dù năm bảy mối cũng chờ mối nhau
C̣n rất nhiều, xin xem ghi chú (i) với các câu ca dao khác !
Các Cụ Ba Chệt lại khoái số chẵn, chọn số tám là số Hên, rất thích số Bốn Tứ, nhưng cũng kiêng dè v́ Tứ điệp vận với Tử. Trong Hà đồ các số chẵn 2-4-6-8-10 là số Âm (đen) nghĩa là số Ngẫu (Đất). Có rất nhiều thành ngữ chữ Hán với các số 4-6-8, dưới đây là vài thí dụ :
四 分 五 裂 tứ phân ngũ liệt, bốn chia năm xẻ ! 四 面 八 方tứ diện bát phương, bốn phương tám hướng. 四 面 楚 歌tứ diện sở ca, bốn phương bị vây. 四 平 八 稳 tứ b́nh bát ổn, bốn nơi thanh b́nh tám nơi ổn định. 四 海 为 家 tứ hải vị gia, bốn bể cũng là nhà. 四 海 之 内 皆兄 弟 tứ hải chi nội giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. 四 处 奔 波 tứ xứ bôn ba, bôn tẩu vất vả bốn nơi! 四 季 如 春 tứ quư như xuân, Bốn mùa cũng như mùa Xuân (thời tiết tốt) 四 方 响 应 tứ phương hưởng ứng, bốn phương ủng hộ ! 六 亲 不 认 tứ thông bát đạt, bốn thông tám suốt. 四 通 八 达 lục thân bất nhận, sáu thân nhân mà chả ai nhận họ hàng 六 亲 无 靠 lục thân vô kháo, sáu thân nhân mà không chỗ nương tựa . 六 神 无 主 lục thần vô chủ, sáu thần mà không có xếp (ư nói lạc lơng) 八 面 威 风 bát diện uy phong, uy phong lẫm liệt tám phương. 八 面 玲 珑 bát diện linh lung, 八 仙 过 海 各显 神 通 bát tiên quá hải các hiển thần thông.
Thuyết chẵn lẻ cổ vơ cho lập luận Kinh Dịch là phát minh của ṇi Lạc Việt, có thể là từ Việt Nam, song song với phát minh Lúa nước, tên gọi ḥa 禾. Các tác giả dựa vào những hoa văn khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn và đồ gốm Phùng Nguyên (phát giác cách đây hơn 100 năm) để đi t́m dấu tích Kinh Dịch do người Văn Lang chế tác ở thời đại Hùng Vương. Mấy cha nội ni la lối um xùm, nói Kinh Dịch gốc Hán chỉ có Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái, thiếu Trung Thiên Bát Quái do Việt Nam sáng lập, nhưng giấu kín, quân Hán đô hộ không ăn cắp đem về Tàu được! Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, tức đạo Cao Đài thành lập khoảng 1920-1926 trong Nam có đặc trưng triết giáo với Kinh Dịch lấy thuyết Tam Tài Thiên-Địa-Nhân để lập nên Đệ Tam Trung Thiên Bát Quái, có chắc đă khá lâu.
Như đă tŕnh làng trước đây, văn hóa ăn mộc tồn là văn hóa trăm phần trăm Bách Việt, mà Lạc Việt đứng số một trong cách nấu nướng với gia vị đặc biệt (Xem Năm chó Nói chuyện Ăn thịt chó). Văn hoá này bắt nguồn và phát triển cùng với mở mang văn minh nông nghiệp. Thế th́ đũa tre đũa trúc là do đời sống nông nghiệp sinh ra từ đời thượng cổ, chắc cũng là do dân Bách Việt sáng tạo ra vậy! Ủa, ḍng giơi Lạc Việt sao mà giàu có dzữ dzậy cà, từ văn hiến nhậu thịt cầy, qua văn hóa Đũa, đến nguyên lí nhị nguyên Âm Dương, kể cả Kinh Dịch...hầm bà làng, ṇi Lạc Việt đều có quyền sở hữu trí tuệ ( propriété intellectuelle )!
Âm Dương chuyển hóa theo chu kỳ Ngũ Hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, để quy định những quy luật tự nhiên trong xă hội loài người. Luật Ngũ hành cũng chi phối Lục phủ ngũ tạng trong thân thể, tỷ như ngũ tạng động, biến sinh ngũ tặc : Tâm động có mừng và niệm, Thận động có t́nh dục và sợ hăi, Can động có sân và hỏa, Phế động có lo lắng và Tỳ động có tư lự và dục vọng.
Dựa theo Ngũ Hành cổ nhân c̣n dạy cách hành văn: Mỗi lời viết ra phải lấp lánh như vàng (Kim), khi th́ sần sùi như gỗ (Mộc), lúc uyển chuyển như nước (Thủy), lúc mănh liệt như lửa (Hỏa), và bao trùm lên tất cả; dưới bút tựa như có khói mây, trong nghiên hầu chứa cả tạo hóa; th́ duy chỉ c̣n có đất (Thổ), mà đất vốn im lặng, v́ thế kẻ nào chưa biết giữ im lặng chưa viết được văn. Than ôi, tôi số phận hẩm hiu, cứ lăng xăng đành hanh lo khoe ba tấc lưỡi để ăn tục nói phét cả ngày những chuyện tầm phào không đầu không đuôi, chẳng biết giữ im lặng, th́ mần răng mà viết nên văn cho đặng?
Gavilan Springs ngày Bính Thân tháng Hai năm Bính Tuất (03/08/06)
Chú thích:
(a) Bài Nói Phét muốn dựng đứng những chuyên Tào Lao (Tây nói histoires à dormir debout...), liên hệ đôi đũa với những tư tưởng Triết học Đông Tây. Những người Tây học có dịp đọc những tác phẩm của Marcel Granet (1884-1940), giáo sư École des Hautes Études và École des Langues Orientales, nhất là tác phẩm đồ sộ gần 500 trang, La pensée Chinoise (1934). Sách của một trong những nhà Đông Phương học trứ danh của Pháp, viết trước đây gần ¾ thế kỷ vẫn không phai lạt với thời gian, tuy nhiên t́m hiểu đối với tôi, cần nhiều th́ giờ v́ từ ngữ Hán chỉ có diễn âm Wade-Gilles, không có Pinyin như hiện tại (và không có chua Hán tự).
(b) Chữ tư duy thấy lạ hoắc, nhưng xuất hiện hầu như cơm bữa, trên báo chí, media VN và trong nhiều sáng tác gần đây của bà con cô bác, bởi v́ à la mốt. Có người không hiểu ở mô mà ra? Từ ngữ mới này do mấy ông Chệt vĩ đại phát minh, Hán tự viết 思維,diễn Nôm tư duy, pinyin (phổ thông) Si wéi. Các từ điển mới viết: tư duy, ư nghĩ - Từ triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật - Tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đă nắm được từ trước. Anh: thought, thinking, Pháp: pensée, tư duy trừu tượng pensée abstraite, Đức: dachte, gedacht, Gedanke. Tự điển Thiều Chửu viết: Tư 思 py: si, bộ 心 tâm, nghĩa, 1 : Nghĩ ngợi, phàm các sự tác dụng thuộc về tâm như tưởng tượng suy xét ghi nhớ đều gọi là tư. 2 : Nghĩ đến. 3 : Mến nhớ như tương tư 相思 cùng nhớ nhau. Duy 維 giản thể 维 py:wéi cũng viết 惟 唯, bộ 糸 mịch, nghĩa: Buộc. Như duy hệ 維縶, duy tŕ 維持 ràng buộc giữ ǵn cho khỏi đổ hỏng.
(c) Tương truyền Vua Phục Hi 伏羲 Fú Xī(Vua Thái Tổ thần thoại Tàu 2000 TCN) đi tuần thú phương Nam qua sông Hoàng hà, gặp Long mă, trên lưng có những chấm đen trắng, rồi thấy rùa thần hiện ở sông Lạc, trên lưng cũng có trang chữ. Phục Hi dựa vào đó vẽ lại thành Hà đồ và Lạc thư, rồi ngửa đầu xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất, mà vẽ nên Bát quái.
(d) Nguời Tây Phương bị ràng buộc bởi lô gíc Đề cạc không hiểu những thực thể bề ngoài tuy mâu thuẫn hay phản biện (contradiction), nhưng lại là chân lí. Xếp Ba Chệt Đăng Tiểu B́nh cắt nghĩa sự chung sống của Xă hội Cộng sản chủ nghĩa và thuyết Kinh tế Thị trường: Mèo đen mèo trắng cũng là mèo, miễn là mèo bắt được chuột! Ông xếp Mao xếnh xáng lại nói: Xă hội chủ nghĩa có nhiều biện chứng thuận và chống, tán thành và phản đối, nhưng trong thuận có chống và trong tán thành có phản đối, và vice vesa...Do đó khi biện chứng có chống đối th́ ta lại sửa sai dài dài...hoặc ta đổi mới...Hai xếp lĩnh đạo đă áp dụng triệt để nguyên lí nhị nguyên Âm Dương!
(e) Âm Dương trong Kinh Dịch phát triển thời gian Vua Vũ nhà Hạ với Tiên Thiên Bát Quái. Qua nhà Thương, rồi đến Văn Vương nhà Chu, Kinh Dịch có nhiều khám phá, nên có Hậu Thiên Bát Quái. Triết học Kinh Dịch ảnh hưởng mănh liệt đời nhà Chu (1122-256 TCN), thời Xuân Thu chiến quốc Khổng Tử viết Thập Dực mà Hán Vũ Đế (Tây Hán) gọi là Dịch truyện (cắt nghĩa kinh Dịch), cùng với Kinh Dịch được gọi là Chu Dịch 周易zhōu ý. Thế nhưng Cocorico (Gáy kiểu Coq Gaulois), nhiều nhà nghiên cữu Kinh Dịch Việt Nam hiện nay, chủ thuyết Kinh Dịch thiếu Trung Thiên Bát Quái đồ, v́ Kinh Dịch là do Con Rồng Cháu Tiên thời Lạc Long Quân Âu Cơ phát minh, Người Tàu không lấy được v́ Tổ Tiên VN giấu kín!
(f) Ngoài Hà đồ với Long mă trên sông Hà, c̣n có Lạc thư trang chữ trên mu Rùa thần có cách bố trí các số khác với Hà đồ. Lạc thư có số 15 là số thần (nombre magique) ! Tống số hàng trên : 4+9+2=15, tống số hàng giữa 3+5+7=15 và tổng số hàng dưới 8+1+6=15 ! Cộng theo hàng dọc, trái 4+3+8=15, giữa 9+5+1=15, phải 2+7+6=15 ! Cộng theo hàng chéo (diagonale) 4+5+6=15 ; 2+5+8=15 ! Số 15 (1,0,5) tương đồng với chuyện cổ Ai cập Isis-Orisis-Horrus. H́nh vuông Lạc Thư, người phương Tây cũng t́m ra thời cổ, gọi là ma phương (carré magique).
(g) Xin nhắc sơ lại nguồn gốc dân Bách Việt. H́nh dáng loài người trên thế giới có 4 đại chủng, Âu (Causacoid) Phi (Negroid) Á (Mongoloid) và Úc (Australoid). Khoảng giữa thời kỳ đồ đá, chủng Á và chủng Úc hợp, sinh chủng Cổ Mă Lai (Indonésien) sống rải rác từ bán đảo Đông dương đến sông Dương tử, từ Ấn độ qua các đảo Indonésie và quần đảo Philippines. Qua Tân thạch khí kỳ đại, thời kỳ đồ đá mới và đồ đồng (3000 TCN), Cổ Mă Lai thường xuyên tiếp xúc với chủng Á từ phương bắc tràn xuống, sinh thành chủng Nam Á (Austro-Asiatique). Chủng này chia ra nhiều dân tộc gọi Bách Việt: Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây, Trung Quốc và Bắc bộ, Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử (Trung Quốc) cho đến Bắc bộ (Việt Nam). Chủng mới Nam Á, lũ Việt nhân và hậu duệ, sinh sống bằng Nông nghiệp, đă khởi sự từ thời đồ đá này phát minh và mở mang văn hóa Thịt Cầy và văn hóa Đũa. Trong khi, các dân tộc sống ở Ấn độ, Indonésie, Philippines, Mă Lai, Căm bốt, Thái (đen), etc...phát sinh từ tổ tiên chủng Cổ Mă Lai, vẫn tiếp tục ăn bốc cho tới thời kỳ gần đây mới bắt đầu dùng muỗng, đôi khi phuộc xét, theo văn hóa phương Tây. Người Ấn độ, phần lớn vẫn c̣n ăn bốc. Văn hóa Nhị nguyên Âm Dương, Kinh Dịch, có lẽ cũng bắt nguồn với lũ Việt nhân này !
(h) Chữ Lẻ, hán tự viết Ki bộ điền 畸 , như Ki nhân 畸 人 người ẩn dật (lẻ loi). Số chẵn viết 雙 Song bộ chuy
(i) Ở trên, kể quá nhiều ca dao sợ phiền nhiễu người đọc, xin chép lại đây vài câu khác để ghi cái duyên với Ba Năm Bảy:
Lá rách lá lành đùm bọc lấy nhau Một cành tươi năm bảy cành sầu Chim kia c̣n biết nhớ nhau nữa người...
Mẹ chồng là mẹ chồng tôi Năm bảy cái quạ nó lôi mẹ chồng.
Một cành dâu năm bảy cành dâu Bên tài bên sắc lấy nhau cũng vừa
Một cành tre năm bảy cành tre Phải duyên thời lấy chớ nghe họ hàng
Một ngày cũng đạo cang thường Huống chi năm bảy tháng trường tơ duyên
Gió thổi một ngày năm bảy trận giông Anh đi nằm băi sao không thấy về
Người ta năm bảy chị em Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Ngày năm bảy thiếp Đêm trọn kiếp nằm không
Nhắn năm bảy tin cũng chẳng thấu t́nh Mần thơ cánh nhạn, tạc chữ quỳnh thăm em
Một ngày năm bảy bận sang Thiếp những trông chàng, chàng những trông ai?
Một ḷng sầu, năm bảy ḷng sầu Đấy vui có biết đây sầu cùng chăng ?
Quay tơ phải giữ mối tơ Dù năm bảy mối cũng chờ mối anh
Quư chi một nải chuối xanh Năm bảy người dành cho mủ dính tay
Em đây năm bảy người giành Như cá ở chợ, dạ ai đành nấy mua
Tiếc công lao anh đào ao thả cá Năm bảy tháng trường họ lạ đến câu
Làm nên năm bảy lạng vàng Chẳng bằng một lúc ra đàng gặp nhau
V́ t́nh anh phải đi đêm Vấp năm bảy cái đất êm hơn giường
Xa xôi năm bảy ngày đường, Duyên ưa, phận đẹp th́ nường cũng theo
(j) Có một ông bạn thân ở Pháp đọc bài này, viết Imeo hỏi Anhk có phải là Horus không ? Và Trung Thiên đồ như thế nào, nên tôi có viết vài hàng trả lời, xin đăng lại dưới đây.
H. ĐC đă bỏ th́ giờ quư báu đọc bài tạp luận viết huyên thuyên về Đôi Đũa, làm tui khoái chí hỉnh mũi, trong ḷng cực kỳ phan phái có bạn tri kỷ, cũng nặng t́nh với đôi đũa!
Như đă rào trước đón sau, tŕnh làng là xin nói phét vô tội vạ, bạ đâu nói đấy, xin đừng bắt bẻ em thái quá tội nghiệp! Nhưng có bạn đồng t́nh, đọc bài viết tới 2 lần rồi, th́ kể cũng như là bạn vàng Oh Ami d'Or dễ chi mà gặp đặng; bạn vàng đă hỏi câu chi biết được th́ trả lời, không biết th́ xin câm miệng hến!
Cặp Isis Thái Âm và Orisis Thiếu Dương, theo Cổ Ai cập, là cha mẹ đẻ của Nhân Loại. Horus con Isis và Orisis, là Ánh sáng của Nhân Loại, là Thượng Đế giáng sinh (le Dieu fait homme). Horus thường được tượng trưng bằng khóa Ank, ch́a khóa của Sự Sống, không có Ank, loài người chỉ là tượng đất sét (l'humain n'est qu'une sculpture d'argile). Glossaires Théosophiques viết : Ankh, Anhk, Ank, Âme, Vie, Sang, Thập tự, Ank tiếng Êbrơ nghĩa Vie, sự sống. Trong sử Ai cập Đệ Ngũ triều Đại Eléphantine, Horus le Jeune là con ngoại t́nh của Isis và Hoàng đế Rê, nối ngôi Luhabim 2113 TCN, lên làm Vua lấy tên là Siophès-Sisirès. Sisirès mất năm 2106 TCN, bị con Luhabim thần Cá Sấu (dieu-crocodile) giết. Thoại sử về sau viết Horus bị Cá Sấu ngốn chết.
Chuyện ATNP viết Horus là nguyên tố 5 trong cặp 1,0 và 5. Khi Vũ trụ chưa hiện h́nh (Univers Non-manifesté) Bản thể chưa hiện sinh hay Phản thể (Non-Être), th́ Anhk là biểu hiệu cho Vô Cực, tức Đạo. Khi Vô Cực sinh Thái Cực, Ank biểu hiệu cho Thái Cực lưỡng nghi Âm Dương. Trong đồ h́nh Thái Cực, cá đen là Isis, cá trắng là Orisis, đường chữ S phân chia Âm Dương, tức số 5 là Horus mà cũng là Ank. Âm Dương sinh ra chữ S, nên có thể nói Isis và Orisis kết hợp sinh số 5, tức Horus hay Ank! Xin xem h́nh dưới đây.
H́nh 1: Orisis với dấu hiệu Anhk,
H́nh 2: Horus cầm gậy Anhk Sinh Sống Vĩnh Cữu, Ankh: Symbol of eternal life. The gods are often seen holding an ankh to someone's lips this is considered to be an offering of "The Breath of Life". The breath you will need in the afterlife
H́nh 3: Orisis và Isis, di tích ở Lăng mộ Bannentiu và Djed-Amun-Iuf-Ank
H́nh 1
H́nh 2
H́nh 3
Kinh Dịch là một Đại dương, sức hiểu biết của tôi chỉ là giọt nước! Sơ lược, Kinh Dịch dựa trên Bát Quái, Bát Quái phát xuất từ Tứ Tượng. Tứ tượng có 4 quẻ : Thái Dương 太陽, Thiếu Dương 少陽, Thiếu Âm 少陰 và Thái Âm 太陰 gồm 2 vạch (Âm hoặc Dương) chồng lên nhau
Chồng thêm một quẻ Âm hay Dương, ta có 8 quẻ đơn Bát Quái, mỗi quẻ có 3 vạch ngang: Càn 乾 (Trời 天), Đoài 兑(Đầm, hồ 澤), Li 離 (Hỏa火) , Chấn震( Sấm 雷), Tốn 巽 ( Gió 風 ) , Khảm 坎 ( Nước水 ), Cấn艮 (Núi 山 ), Khôn 坤 ( Đất 地 ). Chồng thêm 1 vạch, sẽ có 64 quẻ kép.
Theo truyền thuyết, khi mới đặt thành Bát quái, Phục Hi vẽ các quẻ theo một ṿng tṛn khép kín, tính các vạch từ trong ra. Bốn hướng Đông Tây Nam Bắc ứng với bốn mùa (các hướng nh́n lên trời nên ngược với trên mặt đất, ṿng quay của các mùa nguợc với chiều kim đồng hồ, là hướng quay của Vũ trụ). Các quẻ đối xứng về mặt h́nh học và ư nghĩa qua tâm ṿng, nếu quẻ bên này vị trí này là dương th́ bên kia phải là âm. Ba vạch liền đối với 3 vạch đứt, 2 đứt 1 liền đối với 2 liền 1 đứt. Như vậy các cặp đối nhau là: Càn - Khôn (Trời - Đất), Tốn - Chấn (Gió - Sấm), Khảm - Ly (Nước - Lửa), Cấn - Đoài (Núi - Đầm). Đây là Tiên Thiên Bát Quái. Đến đời Chu (TK 12 TCN) th́ Chu Văn vương vẽ theo một trật tự khác, trong đó quẻ Càn bắt đầu từ hướng Tây Bắc, và theo ṿng ngược chiều kim đồng hồ lần lượt là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, đồ h́nh được gọi Hậu Thiên Bát Quái.
Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, đạo Cao Đài có Kinh Dịch lấy thuyết Tam Tài Thiên-Địa-Nhân để lập nên Đệ Tam Trung Thiên Bát Quái, gồm: Phần bên trái thuộc Dương gồm các quẻ : Càn, Khảm, Cấn, Chấn. Phần bên phải thuộc Âm gồm các quẻ : Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đây có lẽ chỉ là Hậu thiên đồ quay 90 độ theo chiều kim đồng hồ !
Các tác giả đi t́m Kinh Dịch do con Rồng cháu Tiên phát minh ra, nói người Hán chỉ ăn cắp được Thiên đồ, Địa đồ và thiếu Trung Thiên Đồ tức Nhân đồ mà Tổ tiên Việt Nam đă giấu kỹ. Các ông nội ni nói với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, và trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Rồi thiết lập Trung Thiên đồ sau đây: quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.
So sánh với Tiên Thiên Đồ (h́nh màu), các quẻ Trung Thiên Đồ sẽ có những vị trí dưới đây:
Nam: Càn (III)
Đông Nâm: Đoài (II:) Tây Nam: Khôn (:::)
Đông: Tốn (:II) Tây: Chấn (I::)
Đông Bắc: Khảm (:I:)Tây Bắc: Cấn (::I)
Bắc: Ly (I:I)
Các hướng nh́n lên trời, nên ngược với trên mặt đất, do đó Nam ở trên mà Bắc ở dưới. Đồ h́nh trên do mấy Ông Cocorico vẽ ra và cắt nghĩa là có thể giải nghĩa nhiều điểm mà Kinh dịch Hán không có trả lời suốt trong hai ngàn năm qua. Đồ h́nh lấy ở đâu ra th́ không thấy nói, chỉ thấy nó khác với Trung Thiên Đồ của Đạo Cao Đài.
Phái Cocorico nói dựa trên các di chỉ đồ đồng đồ gốm làm chứng cớ, lại nói một ít tên quẻ không phải gốc chữ Hán mà là chữ Việt, và nói phát hiện ra Trung Thiên Đồ là nhờ truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Dzụ này là một đề mục ATNP rất hào hứng.
Tôi tính nết hư hỏng ham ăn tục nói phét đến nỗi Bà xă rủa Ngủ nằm mơ cũng nói phét! Tối hôm qua lại nằm mơ mà Nói phét! Thiệt dzậy, suy nghĩ về Nhân đồ tức Trung Thiên đồ của mấy cha nội Cocorico nhà ta, tui thấy hơi kỳ, mọi quẻ không c̣n đối hay tương xứng như Tiên hay Hậu thiên. Tuy không biết chi về Kinh dịch nhưng cũng thấy tâm mạch phế tạng chạy loạn xà ngầu, v́ vũ trụ không c̣n chân lư Âm Dương nữa. Sợ bị tầu hỏa nhập ma, tỉnh dậy toát mồ hôi!
Xin H. Đại Ca tùy tiện muốn chuyển bài ATNP cho ai đọc làm tiêu khiển cũng được, chỉ sợ thiên hạ cười, nhưng đă viết chuyện Nói Phét, th́ cũng như mang mặt mo! Mong H. Đại Ca thỏa măn với mấy bổ túc trên. Nay thơ, NQ Bảo