Nhà thơ Hồng Cầm làm thơ khơng theo chủ định trước, khơng bao giờ ơng ngồi "nghĩ thơ" mà phần lớn nĩ tự đến từ một rung cảm, một hồi niệm hay một nỗi đau buồn nào đấy. Những xúc cảm ấy thường đến trong đêm khuya, bằng một giọng nữ vǎng vẳng bên tai: "Bên kia sơng Đuống", "Về Kinh Bắc", "Mưa Thuận Thành", "Men đá vàng", "99 tình khúc" - những tập thơ chính của ơng đều xuất phát từ những xúc cảm đĩ và xuyên suốt trong thơ ơng là chất trữ tình bay bổng của một vùng vǎn hĩa phồn thịnh Kinh Bắc, của một con chim vàng với giọng hĩt lảnh lĩt, của một cây đàn hồng tử với những âm điệu lịch lãm và sang trọng ngân vang trong nền thơ Việt Nam...
Tơi sinh ra trên miền đất quan họ, ở vùng Thuận Thành, cịn gọi là Luy Lâu - nơi phát tích đầu tiên của nền vǎn hĩa Việt Nam, phía hữu ngạn của sơng Đuống. Cha tơi là một ơng đồ nho nghèo chuyên đi dạy học kiếm sống, làng nào mời dạy thì đĩn về gĩp gạo nuơi thầy, lúc rảnh rang lại xoay ra bốc thuốc bắc cho bà con trong làng. Mẹ tơi là một phụ nữ trẻ đẹp, hát quan họ hay nhất làng Bưu, lại là làng hát quan họ nổi tiếng nhất trong vùng. Mẹ tơi cùng thơn với mẹ của thi hào Nguyễn Du - bà Nguyễn Thị Tần. Tơi được sinh ra một đêm trước ngày hội Lim (12 tháng giêng nǎm 1922). Tuổi thơ tơi lớn lên trong lời ru của các làn quan họ, của các điệu hát đối, hát ví. Trong tơi luơn thấm đẫm những âm hưởng, sắc màu của một nền vǎn hĩa Kinh Bắc với một đời sống vật chất và tinh thần rất phong phú, nĩ ngấm và ảnh hưởng vào cuộc đời, vào giọng điệu thơ tơi rất nhiều sau này.Tơi nghiệm ra một điều, thời niên thiếu sinh sống như thế nào thì nĩ in đậm vào hồn anh, thơ anh như thế. Xuân Diệu sống ở thành thị từ nhỏ nên rất khĩ tìm trong thơ ơng những nét làng quê, ngược lại, thơ Nguyễn Bính rất khĩ tìm ra chất thị thành mà thường là hình ảnh của một làng quê nghèo chân chất vùng chiêm trũng. Về già tơi hay ngồi nghiền ngẫm sự đời và cũng nghiệm ra một chân lý: cách sống, lối sống của mình như thế nào thì mình sẽ làm thơ như thế và điều đĩ cịn quán xuyến suốt cả cuộc đời mình. Tơi sống thiên về nội tâm, về thế giới bên trong cịn ngồi đời rất ngờ nghệch, dại dột vì thế hay gây ra những hiểu nhầm hoặc thua thiệt. Tuy nhiên, cũng nhờ thế mà tơi cĩ những giây phút xuất thần với "Bên kia sơng Đuống", "Lá diêu bơng", "Mưa Thuận Thành".
- Thế nhưng chắc chắn những bài thơ ấy phải xuất xứ từ một cảm hứng cụ thể nào đĩ chứ, thưa ơng?
- Dĩ nhiên là thế, mỗi bài thơ đều mang những tình riêng của mình lâu nay và chỉ chờ những cảm xúc đến là bật lên thành lời. Những cảm xúc ấy đến rất lạ. Thường trong đêm khuya thanh vắng, tơi chợt nghe vǎng vẳng bên tai một giọng đọc, vâng, một giọng đọc nữ thong thả và rõ ràng - cố nhiên đĩ là giọng đọc phát ra từ tâm trạng của chính mình và ngay trong thời khắc ấy tơi cầm lấy bút ghi chép ngay. Khi tơi khơi được nguồn mạch, các câu thơ sau cứ thế mà tuơn trào. Bài "Bên kia sơng Đuống" bắt đầu từ một giọng đọc nữ trong đêm như thế. Lúc ấy, tơi đang làm báo ở Việt Bắc cùng các anh em khác như Nguyên Hồng, Kim Lân, Hồng Tích Linh... Bố mẹ và vợ con tơi đang bị mắc kẹt ở phía bên kia sơng Đuống, nơi địch chiếm đĩng. Tơi đang lo lắng vì lâu khơng nhận được tin nhà thì nghe ơng chỉ huy bảo tơi cĩ mấy anh lính ở dưới quê lên báo cáo tình hình. Nghe báo cáo xong, về tơi khơng sao ngủ được, trong lịng tràn đầy các tình cảm rối bời, lo lắng, xao xuyến xen lẫn với cǎm giận và nhiều nhất là sự xĩt xa, thương nhớ khi nghĩ về làng quê mình đang nằm dưới gĩt giặc, về những người dân quê bị giết, những ngơi đình bị phá và những ngơi chùa bị chiếm đĩng... Trong tâm trạng đĩ tơi nghĩ khĩ mà làm thơ được nhưng rồi chợt vǎng vẳng trong đêm khuya vang lên một giọng đọc nữ: "Em ơi buồn làm chi / Anh đưa em về bên kia sơng Đuống / Ngày xưa cát trắng phẳng lì". Những tình cảm dồn nén bấy lâu nay cứ thế trào ra thành thơ, tơi ghi lia lịa chỉ sợ ghi khơng kịp bị tắc giữa chừng và khi ghi xong 134 câu thơ thì trời đã rạng sáng. Tơi liền đánh thức Nguyên Hồng dậy, đợi ơng ra sân tập thể dục xong mới gọi: "Hồng ơi, cĩ thơ mới này, thích nghe thì vào đây". Khi tơi mới đọc được 4, 5 câu đầu, ơng đã... khĩc thút thít. Nguyên Hồng cĩ một cái tật rất đáng yêu là nghe chuyện gì xúc động là ơng khĩc ngay, mà khĩc thành tiếng nức nở như phụ nữ hẳn hoi. Tơi biết thế nên cứ đọc, bên tai là tiếng khĩc ngày càng to của Nguyên Hồng, nước mắt, nước mũi ràn rụa đến nỗi ơng phải lấy vạt áo để lau. Hơm sau ơng bảo tơi chép thành 3 bản để gửi đi ba nơi (lúc đĩ N.Hồng là tổng biên tập báo Quân Việt Bắc, báo Sự Thật (tiền thân của Nhân Dân ngày nay), báo Vệ quốc quân (QĐND) và Ban Vǎn nghệ Nha Thơng tin tuyên truyền). Mãi 2 tháng sau bài thơ lại xuất hiện trên một tờ báo khác là Cứu quốc - tiền thân của báo Đại đồn kết do hai ơng Như Phong và Tơ Hồi phụ trách... Thời đĩ bài thơ này cùng với "Đêm liên hoan", "Quà tặng đêm giao thừa" được rất nhiều người yêu thích và đồng cảm, nĩ lan truyền tận Cơn Đảo, Phú Quốc. Đĩ là những bài thơ tâm đắc nhất thời kháng chiến chống Pháp của tơi...
Nhiều bài thơ về sau, đặc biệt là bài "Lá diêu bơng" cũng ra đời trong một tình huống ban đầu như thế.
Sau này, cĩ kinh nghiệm nên trước khi đi ngủ tơi luơn để sẵn một tập giấy dưới gối và một cây bút chì bên tay phải (tơi khơng dùng bút mực vì sợ tắc giữa chừng), chờ khi cảm xúc đến là bật dậy viết luơn vì chỉ vài phút sau là quên ngay. Đêm ấy là một đêm mùa đơng lạnh giá, tơi khơng ngủ được mà khơng bởi một lý do gì. Đến khoảng gần 2 giờ sáng, một giọng đọc lại vang lên, rành rọt: "Váy Đình Bảng buơng chùng cửa võng"... Nhanh như một luồng điện chạy qua cơ thể, tơi cầm bút và viết ngay, dịng này đè lên dịng kia dưới ánh đèn ngủ mờ ảo 6w. Đây là bài thơ duy nhất mà tơi ghi lại từ đầu đến cuối theo giọng đọc đĩ. Hia ra cái tình ấy, câu chuyện ấy mà đã ngấm vào mình từ lâu rồi...
Nǎm 4 tuổi, tơi được bố gởi đi trọ học trên tỉnh, cách nhà khoảng 6km. Chiều thứ bảy lại theo chuyến tàu chợ về nhà. Một hơm, được nghỉ học sớm nên tơi tranh thủ về nhà. Vừa bước vào cửa, tơi thấy một cơ gái tĩc dài đang mua hàng của mẹ, khi chị quay mặt ra tơi như bị một cú sét đánh trúng bởi một gương mặt quá đẹp, đến mức khơng diễn tả được, làm sáng bừng cả khơng gian xung quanh, cịn tơi thì như bị mê man đi. Trong 4, 5 nǎm trời, hễ đi học thì thơi chứ về nhà là tơi lẽo đẽo theo chị, chị ra bờ sơng gần nhà giặt áo, tơi cũng men theo; chị vào vườn ổi, tơi cũng vào theo... Hơm ấy là Noel, buổi chiều tơi theo chị ra đồng, trời lạnh, nắng đã nhạt dần. Chợt chị quay lại mắng yêu: "Ơ, sao thằng này cứ theo tao mãi thế nhỉ", tơi đỏ bừng mặt nhưng trong lịng rất sung sướng. Lúc sau thấy chị vạch lá tìm cái gì đấy, tơi bèn hỏi: "Chị Vinh ơi, chị tìm cái gì đấy?". Chị bảo tìm một thứ lá gì đấy mà sau này tơi quên mất, rồi nĩi đùa: "Đứa nào tìm được lá, ta sẽ gọi là chồng". Tối, hai chị em dắt tay nhau về nhưng câu chuyện này cứ ám ảnh tơi mãi, đặc biệt là lời thách đùa của chị. Nhưng sau đĩ chị đi lấy chồng, tơi... thất tình từ nǎm 15 tuổi. Mấy chục nǎm sau viết "Lá diêu bơng", những ký ức tuổi thơ vẫn sống mãi trong tơi bỗng tràn về...
- Những cảm xúc đến trong đêm và qua giọng đọc của người phụ nữ ấy, nĩ làm chủ hồn tồn ngịi bút của ơng, ơng cĩ nghĩ sẽ cĩ những câu thơ vơ nghĩa?
- Cĩ nhiều câu thơ vơ nghĩa nhưng nĩ vẫn giàu sức gợi, sức cảm. Theo tơi khơng nhất thiết phải giải nghĩa thơ mà hãy tự cảm nhận, từ cảm nhận sẽ ra hình tượng. Thơ, nhiều khi chỉ là một cái đẹp đơn thuần. Nhiều người hỏi "Lá diêu bơng" là gì, tơi khơng biết nhưng rõ ràng nĩ phù hợp với khơng khí, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. Nhiều người lại hỏi tơi nghĩ gì khi viết một câu thơ rất hình ảnh và hình tượng chỉ về con sơng Đuống là "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ". Quả thật lúc ấy tơi khơng nghĩ gì cả. Nhưng nếu giải nghĩa cĩ thể hiểu đĩ là sự nhân cách hĩa con sơng, nĩ cũng suy tư, trǎn trở khi nghĩ về vận mệnh Tổ quốc, dân tộc và chính nĩ.
- Trong lời đề tựa của tập thơ 99 tình khúc, ơng cĩ ghi trong lời tựa rằng "Thành kính dâng lên hương hồn người đã gợi ra nhịp điệu, âm thanh và đường nét sắc màu trong 99 tình khúc" và phía dưới là "dâng" cho 13 người phụ nữ. Từ thuở ấy đến giờ, hình như ơng vẫn đi đầu non cuối bể để tìm lá diêu bơng! Ơng sẽ khơng ngại chứ khi trả lời câu hỏi hơi tế nhị này, cĩ phải đĩ là những người phụ nữ đã đi qua đời ơng?
- Khơng, cĩ gì phải ngại khi tơi đã ghi lời đề tựa như thế. Những người phụ nữ ấy là những mối tình của tơi. Cĩ mối tình đơn phương, cĩ cuộc tình đồng điệu, cĩ... những người bạn đời và những người tình. Những mối tình này đã đi qua đời tơi, là cội nguồn, rung cảm và gĩp phần vào nhưng bài thơ, những tình khúc này.
ở tuổi "xưa nay hiếm" (80 tuổi), cĩ cịn "tình khúc" nào nữa đến với ơng và giọng đọc của người phụ nữ vǎng vẳng trong đêm khuya ấy, cĩ cịn?
- Mấy nǎm gần đây cĩ vẻ như cảm xúc đang thưa dần đi do sức khỏe, tuổi tác khơng cịn như xưa mà tơi lại khơng bao giờ ngồi "nghĩ thơ", cái đĩ tơi dành cho vǎn xuơi. Tập vǎn xuơi thứ hai của tơi sẽ ra mắt trong thời gian tới cũng là những bài tạp vǎn, hồi ký, hồi niệm, những truyện ngắn đậm chất thơ hay những bài phê bình vǎn học kiểu cảm nhận... Trong nǎm nay, NXB Vǎn học sẽ in cho tơi 2 tập vǎn xuơi, một tập thơ và một tập kịch thơ ("Kiều Loan", "Trương Chi", "Hậu Nam Quan", "Lên đường", "Cơ gái nước Tần")
- Và bút danh Hồng Cầm nữa, nghe rất gợi, ơng cĩ thể giải nghĩa cho bạn đọc - bởi tơi chắc chắn nĩ-khơng-vơ-nghĩa?
- Tên thật của tơi là Bùi Tằng Việt do bố tơi đặt, bởi tơi sinh ra ở thơn Phúc Tằng, huyện Việt Yên. Nǎm 18 tuổi, khi viết cho tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy, tơi lấy bút danh là Hồng Cầm. Trước tiên, nĩ là tên của một vị thuốc bắc rất đắng nhưng chữa được nhiều bệnh, cịn tơi chọn nĩ bởi hai nghĩa: Hồng Cầm là con chim vàng và cây đàn hồng tử. Cả hai nghĩa này đều gần với đời tơi và thơ tơi (trong đĩ tập "Về Kinh Bắc" tiêu biểu nhất cho phong cách và mang đậm ý nghĩa của bút danh này). Thành ra bao nhiêu ý nghĩa của bút danh này nĩ đều vận vào cuộc đời tơi.