Trong kho tàng dân ca cổ truyền, tôi thấy có một thể ca rất sinh động, hiện diện trong hầu hết các loại ca. Đó là Hát Lư. Tôi rất yêu thể ca này và dành cho nó một bài viết.
Hát Lư trước hết là một câu (hay một bài) hát chơi của nhi đồng hay người lớn, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một h́nh thức nghệ thuật tự phát của dân chúng. Hát lư sau đó du nhập vào những tổ chức âm nhạc nhà nghề như Hát Chèo, Hát Ả Đào, Hát Cải Lương, Hát Sắc Buà, Ca Huế, Hát Quan Họ, Hát Bộ, Hát Chầu Văn vv...và do đó mà có tŕnh độ nghệ thuật cao hơn h́nh thức hát lư sơ khai.
Theo tôi, nếu như trong những thể hát khác trong dân ca Việt Nam có một số bài không thuần túy là ca dao được hát lên, th́ h́nh thức hát lư hoàn toàn là những câu ca dao được phổ nhạc.
Trước hết, tôi xin đưa ra danh sách của trên 80 bài hát lư mà tôi đă sưu tập và nghiên cứu trong ṿng ba, bốn chục năm qua để cả quyết nói rằng tất cả đều là những câu ca dao được hát lên. Đó là : Lư Con Sáo Huế, Lư Hoài Xuân, Lư Con Chuột Huế, Lư Con Quạ Huế, Lư T́nh Tang, Lư Mười Thương, Lư Con Sáo Bắc, Lư Con Sáo Quảng, Lư Con Sáo G̣ Công, Lư Con Sáo Sang Sông, Lư Con Sáo Cải Lương, Lư Giao Duyên, Lư Chàng Ôi, Lư Bốn Mùa, Lư Ru Con, Lư Vọng Phu, Lư Cây Đa, Lư Đ̣ Đưa, Lư Toan Tính, Lư Con C̣, Lư Cũ Rũ, Lư Mèo Lành, Lư Qua Đèo, Lư Chiều Chiều, Lư Hoài Nam, Lư Cửa Quyền, Lư Cảnh Chùa, Lư Tử Vi, Lư Tiểu Khúc, Lư Ngũ Luân, Lư Nam Sang, Lư Giang Nam, Lư Thiên Thai, Lư Triền Triện, Lư Mọi, Lư Đá Rừng, Lư Chuột Chê, Lư Khỉ Đột, Lư Ba Cô, Lư Ngô Đồng, Lư Lá Sen, Lư Cây Bông, Lư Ba Tri, Lư Lu Là, Lư Cây Ổi, Lư Cái Phảng, Lư Nuôi Ong, Lư Ngựa Ô Huế, Lư Ngựa Ô Nam, Lư Ngựa Tây, Lư Đường Trơn, Lư Quay Tơ, Lư Đươn (Đan) Đệm, Lư B́nh Vôi, Lư Quạ Kêu, Lư Chuột Kêu, Lư Kéo Chài, Lư Che Hường, Lư Chim Khuyên, Lư Bánh Ḅ, Lư Con Cua, Lư Lạch, Lư Hành Vân, Lư Hoa Thơm, Lư Thương Nhau, Lư Mong Chồng, Lư Vẽ Rồng, Lư Bắt Bướm, Lư Cây Duối, Lư Ông Hương, Lư Con Nhái, Lư Con Mèo, Lư Dừa Tơ, Lư Chim Chuyền, Lư Mạ Non, Lư Bánh Canh, Lư Con Cá...
Bốc ra bất cứ một bài hát lư nào, ta cũng thấy đó là một câu ca dao được trở thành dân ca, chẳng hạn bài (hay điệu) hát Lư Ngô Đồng. Bài này thoát thai từ câu ca dao : Chiều chiều ra đúng lầu Tây Thấy cô gánh nước tưới cây ngô đồng.
Câu ca dao lục bát này, khi trở thành bài hát lư, th́ nhạc điệu không c̣n thô sơ như lối đọc hay ngâm thơ nữa. Mỗi chữ trong câu thơ, tùy theo các dấu, không chỉ nằm trong một thanh nhất định mà đă có sự nhấn giọng trong vài chữ của câu ca dao. Chiều chiều (ra a) (đứng ơ)
Hai chữ "ra" và "đứng" đều phải dùng 2 nốt nhạc. Bây giờ câu ca dao c̣n chịu thêm qui luật của âm nhạc. Nó có câu láy (répétition) hay câu mô phỏng (imitation) : Tây lầu Tây, Tây lầu Tây
Nó đă có một câu nhạc chủ đạo nằm trong hệ thống ngũ cung Do Mi Fa Sol La và bây giờ th́ nhạc đề đó được phát triển (développement du thème musical) với những chữ lót, chữ đệm : Thấy cô tang t́nh gánh ư nước ơ Tưới cây, tưới cây ngô đồng ơ.
Phổ nhạc xong câu ca dao có sẵn đó rồi, bây giờ muốn cho bài hát Lư có thêm ư nghĩa, người ta làm thêm ba câu hát nữa -- gọi là câu "phụ nghĩa" -- nét nhạc cũng lại là sự phát triển của câu nhạc chủ đạo :
Xui khiến xui trong ḷng Trong ḷng tôi thương Thương cô tưới cây ngô đồng a.
Đặt Tên Bài Đặt Tên Điệu
Việc đặt tên cho các câu, các bài hay các điệu hát lư có vẻ hơi rắc rối. Người xưa, khi phổ ca dao thành hát lư, thường có nhiều cách để đặt tên. Trong các ví dụ sau đây, những chữ nằm trong ngoặc đơn là những tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy -- c̣n lại là nguyên văn câu ca dao lục bát.
* Đặt Tên Theo Nội Dung Lấy nội dung của câu ca dao để đặt tên, ví dụ : Trồng hường phải khéo che hường (Ù ù ơ, ơ rằng ơ, qua tu lới mà chè hương) Nắng che mưa đậy cho hường (Ù ù ơ, ơ rằng ơ, qua tu lới mà) trổ bông.
Nội dung là việc che nắng, che mưa cho hoa hường trổ bông. Vậy th́ cái tên của câu này, bài này hay điệu này là Lư Che Hường (c̣n được nói lái là Lư Chè Hương).
Bài này có thêm hai lời ca do Phạm Duy soạn : 2. Trồng hường bẻ lá che hường Nhớ em không quản bước đường, đường xa 3. Trồng hường giở nón che hường Ngắt bông hoa đẹp cho nường đẹp hơn
* Đặt Tên Theo Chữ Đầu Lấy mấy chữ đầu của câu ca dao : Chim chuyền nhành ớt (cái) líu lo (Rồi lại líu lo) Sầu ai (nọ, sầu ai nọ) nên nỗi (Ôi) ốm (cái) ho gầy ṃn (Ai ư y ôi !)
Dù nội dung của câu ca dao này là sự "sầu ai nên nỗi ốm ho gầy ṃn" nhưng người ta lại dùng hai chữ đầu để đặt tên là Lư Chim Chuyền.
* Đặt Tên Theo Tiếng Đệm, Tiếng Lót Lấy tiếng đệm, tiếng lót hay tiếng láy, tiếng đưa hơi ở trong bài hát như : "lu là, t́nh tang, ḥ khoan" vân vân... để đặt tên :
Ai ziề (mà) Giồng Dứa qua truông Gió lay (lu là) bông sợi (ơi người ơi !) Bỏ buồn (ơi là buồn mà) cho ai ?
Câu ca dao này, khi hát lên với tiếng đệm như vậy th́ được gọi là Lư Lu Là. Điệu Lư Lu Là này c̣n được dùng để hát nhiều câu ca dao có nội dung khác nhau, miễn là trong bài hát có tiếng đệm, tiếng lót "lu là".
* Một Bài Nhiều Tên Vấn đề đặt tên cho các câu, các bài, các điệu hát lư của người Việt Nam khi xưa dễ dăi như vậy, nhưng lại cũng dễ làm cho người ta lầm lẫn. Một bài hát lư, nguyên là câu ca dao : Xăm xăm bước tới (mà) cây chanh (ạ) Lăm le (a lu là) muốn bẻ (ư ôi nàng ôi !) Sợ (ơ ơ ơ) nhành (ôi nàng ôi mà) gai châm.
Bài nầy có khi được gọi là Lư Xăm Xămhay Lư Cây Chanh. Cũng có khi được gọi là Lư Cây Chanh, nhưng trong thực tế, bài này được hát bằng điệu Lư Lu Làkể trên.
* Chung Tên - Khác Lời - Khác Điệu Ngoài ra, có một số bài có chung một cái tên nhưng lại khác hẳn nhau về lời và nhạc. Lư Con Chuột nghe ở Huế : Một con chuột là một cái đuôi (ơ) Hai (ư) tai (hai tai) hai mắt (ơi người ơi!) Một (y y y) đầu (ơi người ơi) bốn chân
Chuột chê (chuột chê t́nh mà) lúa lép (Lúa lép lúa lép qua lối nọ) không ăn. Chuột chê (t́nh mà) nhà rách (nhà rách) (Chuột chê t́nh mà nhà rách qua lối nọ) Ra nằm (tre) bụi tre.
Thêm hai lời ca hát với điệu này :
2. Vợ chê chồng dốt không hay Chồng chê đọc sách đi cày khoẻ hơn 3. Chồng chê vợ xấu không ngoan Vợ chê làm đẹp ? ? rảnh tay
* Chung Tên - Chung Lời - Khác Điệu Cũng có khi có chung một lời ca nhưng khác hẳn nhau về giai điệu v́ có thêm biến tấu như bài Lư Con Sáo nghe ở miền Bắc :
Ai đem (là đem) con sáo (A la nhớ phải nhớ a la nhớ phải thương) (Ơi người người ơi, a a a a a) (Mà) để (ế) cho (sáo sang sông) (Ờ mấy t́nh mà ai đem) con sáo (sang sông) (Để cho sáo) xổ lồng (Mà ai đem con sáo) bay xa (a a a a a)
Cùng là một câu ca dao quen thuộc, nhưng Lư Con Sáo Quảng hát ở miền Quảng Nam lại có một nhạc điệu khác, xây dựng trên một ngũ cung khác. Lư Con Sáo nghe ở Quảng Nam : Ai đem ai đem con sáo (ư ư ư ư) Sang sang sang sang sông Con sáo sang sông T́nh bằng sang sông (ư ư ư ư) vân vân...
Tại miền Nam, câu ca dao về con sáo "sang sông và xổ lồng" đó lại có một bố cục và một nhạc điệu khác. Lư Con Sáo Nam :
Ai đem ai đem bằng sáo (ư ư ư ư) Sang sang sang sang sang sông Con sáo sang sông T́nh bằng sang sông (ư ư ư ư ư ư)
Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, hát lư là ca dao lục-bát được phổ nhạc. Để biến ca dao thành hát lư, người xưa có nhiều cách bố cục.
1) Một cặp lục-bát là một nhạc khúc Thông thường là chỉ dùng một cặp lục bát. Cả hai câu 6 và 8, với tiếng đệm và tiếng láy, trở thành một bài hát và chỉ có một nhạc khúc mà thôi. Ví dụ Lư Con Sáo Huế, Lư Chim Chuyền và Lư Triền Triện : Xem lên ḥn núi (ḥn núi ta lư nọ) Thiên Thai Thấy (ư) đôi (á đôi con triền) triền triện Thấy (ư) đôi (á đôi con triền) triền triện (ta lư nọ) ăn xoài ( a ư a, ăn xoài) chín cây.
2) Chia đôi cặp lục bát thành hai khúc Chia đôi hai câu ca dao, câu 6 là khúc 1, câu 8 là khúc 2, nhưng cả hai đều chỉ được hát trên một nhạc khúc mà thôi. Ví dụ câu ca dao :
Chim khuyên ăn trái nhăn lồng Thia lia quen chậu vợ chồng quen hơi.
Khi trở thành bài Lư Chim Khuyên (hay là Lư Chim Quyên) th́ câu 6 được phổ bằng một nhạc khúc :
Chim khuyên (quầy) ăn trái (quây) Nhăn (i i i lồng nhăn i i i) lồng (ơ con bạn ḿnh ơi)
Câu 8 cũng được hát trên nhạc khúc có sẵn đó :
Thia lia (quầy) quen chậu (quây) Vợ ( i i i chồng vợ i i i ) chồng (ơ con bạn) quện hơi.
Thêm hai lời ca :
2.- Chim khuyên nút mật bông qùy Ba năm đợi được huống ǵ một năm 3.- Chim khuyên xuống suối tha mồi Thấy em lao khổ đứng ngồi chẳng yên
3) Toàn vẹn câu lục bát được dùng ... với tiếng đệm, tiếng lót, nhưng lại có thêm câu ca để phụ thêm ư nghĩa cho bài hát. Ví dụ câu ca dao lục bát sau đây :
Chiều chiều ra đứng (ơ mưa) ngoài mưa (Mưa ngoài mưa) Thấy ai (tang t́nh) khuấy nước (ơ) Đẩy đưa (đẩy đưa) con đ̣...
Khi được tăng cường và được hát trên điệu Lư Ngô Đồng để trở thành một bài hát lư khác (mà ta có thể đặt tên là Lư Ngoài Mưa) th́ nó có thêm một đoạn gọi là phụ nghĩa như sau :
Thương với thương trong ḷng con đ̣ sang sông Mênh mông nước trôi suôi ḍng ơ...
4) Dùng hai cặp lục bát Một bài hát lư cũng có khi dùng hai cặp lục bát, nghĩa là 4 câu thơ. Sau mỗi cặp lục bát cũng có thêm một câu thơ phụ để cho câu thơ lục bát đó có thêm ư nghĩa. Chẳng hạn bài Lư Quay Tơ. Bài hát lư này được phân ra hai loại khúc với hai nhạc điệu khác nhau. Khúc 1 là hai câu lục bát có thêm câu tăng cường : Sáng trăng, sáng cả (tranh mà) vườn tranh (có) Bên anh (anh ngồi) đọc sách Bên nàng quay (mối) tơ...
Thêm câu phụ nghĩa :
Cứ đêm đêm khi đèn chưa tỏ Em ngồi quay dưới bóng trăng...
Khúc 2, với nhạc điệu hơi khác khúc 1, là hai câu lục bát tăng cường :
Quay tơ, em giữ (tơ mà) mối tơ (dẫu) Se năm (mà) bẩy mối Vẫn chờ ai mối ai.
Thêm câu phụ nghĩa :
Cứ đêm đêm em ngồi em dệt Bao vần thơ ôi mến yêu (2 lần)
5) Dùng bốn cặp lục bát Đặc biệt có bài dùng tới 4 cặp lục bát, tức là tám câu thơ. Ví dụ bài Lư B́nh Vôi Nguyên văn :
Lỡ tay, rớt bể b́nh vôi. Chủ ra bắt được bắt ngồi xướng ca. Xướng ca là xứ của người Biểu tôi không ở kêu trời nỗi chi? Lỡ tay rớt bể b́nh vôi. Bắt suôi bắt ngược bắt ngồi với nhau. Có cau lại có cả trầu Có dâu có rể ăn trầu bởi ai ?
Hai câu lục bát đầu được chia ra 2 phần, phần I gồm hai nhạc khúc khác nhau : Phần I - Nhạc khúc 1 (câu lục bát thứ nhất) :
Lỡ (bằng) tay, rớt (bằng) bể (rơi bằng) b́nh (vôi bằng) vôi. Chủ (bằng) ra bắt (bằng) được Bắt (bằng) ngồi xướng (bằng) ca. (Cái mà xướng ca)
Nhạc khúc 2 (câu lục bát thứ hai) : Xướng ca là xứ của người Biểu (t́nh) tôi không ở Kêu trời (t́nh bằng chi cái) nỗi chi? (Có đây rồi, t́nh bằng chi cái nỗi chi?)
Phần II cũng có hai nhạc khúc, mỗi nhạc khúc là một câu thơ lục bát : Nhạc khúc 1 : (câu lục bát thứ ba) :
Lỡ (bằng) tay rớt (bằng) bể (rơi bằng) b́nh (vôi bằng) vôi. Bắt (bằng) suôi bắt (bằng) ngược (bắt ta) Bắt (ta) ngồi (nhau bằng nhau cái mà) với nhau.
Nhạc khúc 2 : (câu lục bát thứ tư) :
Có cau lại có cả trầu Có (nàng) dâu có rể Ăn trầu (t́nh bằng ai đó) bởi ai? (Có ăn trầu t́nh bằng ai đó hởi ai?)
6) Dùng bảy cặp lục bát Chỉ thấy ở Lư Cửa Quyền ở vùng Huế, Thừa Thiên. Đây là một bài thơ dài, có tới bảy cặp lục bát hát liên tục. Lư Cửa Quyền đặc biệt là ở chỗ câu đầu gồm một cặp lục-bát rưỡi, nhưng từ câu thứ hai trở đi th́ câu hát khởi sự từ "câu bát" và kết bằng "câu lục" (của cặp lục-bát sau) : Bốn) Cửa Quyền chạm bốn con dơi Hai con (t́nh như) dơi cái ( y y y y) Hai (hai ư) con đầu xà ( ta la) (Bốn) Cửa Quyền chạm bốn b́nh ba (b́nh ba = b́nh hoa) Hai b́nh (t́nh như) ba sứ (y y y y) Hai (ỳ hai ư) b́nh (là b́nh) ba sen (ta la) (Bốn) Cửa Quyền chạm bốn cây đèn. Hai cây (t́nh như) đọc sách ( y y y y) Hai (hai cây đèn là) đèn quay tơ (ta la) (Bốn) Cửa Quyền chạm bốn bài thơ.
Bài lư này tiếp tục với những câu bát lục sau đây, và vẫn được hát theo điệu công thức đă dùng để hát những câu đầu : Hai bài thơ phú hai bài thơ ngâm Cửa quyền chạm bốn con rồng Hai con lấy nước hai rồng phun mây Cửa quyền chạm bốn ông thầy Hai ông đọc sách hay thầy tụng kinh Bốn cửa quyền chạm bốn tứ linh Long, Lân, Qui, Phượng như sinh một nhà Cửa quyền chạm trổ tài hoa.
7) Phá khuôn lục bát Trên đây, chúng tôi đă đưa ra nhận xét về sự có mặt của hát lư trong nhiều thể loại dân ca Việt Nam, từ h́nh thức giản dị của một bài hát chơi, một nhi đồng ca (Lư Con Sáo) qua h́nh thức hát t́nh tự (Lư Quay Tơ) tới một loại hát trên sân khấu. Bất cứ ở trong một khu vực dân ca nhạc Việt Nam nào cũng đều có sự hiện diện của hát lư.
Chúng tôi cũng đưa ra những cách bố cục của hát lư, hoàn toàn dựa vào thể thơ lục bát, hoặc là biến một cặp hay nhiều cặp lục bát thành một bài hát, không thêm chữ, không bớt chữ (ngoài chữ đệm, chữ lót) hoặc là cho thêm một vài câu thơ ngắn gọi là câu phụ nghĩa vào từng đoạn của bài hát để nhấn mạnh cho ư nghĩa của bài hát.
Nghệ thuật biến ca dao lục bát thành hát lư c̣n lên cao với những bài như Lư Ngựa Tây, Lư Quạ Kêu... trong đó câu thơ lục bát chỉ là một điểm tựa cho một bài hát có tính cách hát với bộ điệu (nói tắt là hát bộ).
Lư Ngựa Tây khởi sự từ một câu ca dao lục bát : Ngựa Tây khó tính lăng loàn Ta g̣ cương lại, lên đàng thậm hay.
Trở thành một bài lư, người xưa đă thêm thắt vào cặp lục bát đó những câu thơ ngắn, hát lên với một "hành điệu" (tôi muốn nói tới cả giai điệu và tiết điệu) nhanh nhẹn, h́nh dung được cảnh tượng một người leo lên lưng con ngựa nóng tính, bị hất ngă lại c̣n bị ngưạ đá nữa, nhưng vẫn thấy lên ḿnh ngưạ, một tay quất ngọn roi, một tay g̣ cương lại và cuối cùng trị được con ngựa bất kham :
Con ngựa ơ ngựa Tây Con ngựa ơ ngựa Tây Mà là Tây khó tánh, Mà là nỗi lăng loàn. Hỡi bạn chung t́nh ơi! Mà là nỗi lăng loàn. Yếng yểng lên Yếng yểng lên Yêng ta lên một cái Nó lại đá một cái! Yêng ta đau cha chả Yêng ta lên cái nữa, Yêng ta quất một roi, Yêng ta g̣ cương lại, Ngưạ thôi nóng tánh, Tính tang tính t́nh, lên đàng Hỡi bạn chung t́nh ơi ! Lên đàng thậm hay. Hí hi h́ hí hi (bắt chước tiếng ngưạ hí)
Bài Lư Quạ Kêu cũng là câu lục bát : Quạ kêu nam đáo nữ pḥng Người dưng khác họ đem ḷng nhớ thương
... trở thành bài hát lư với những câu thơ thêm thắt và với một hành điệu ngộ nghĩnh làm cho câu ca dao có tính chất trữ t́nh trở thành một bài ca hài hước : Kêu cái mà quạ kêu Kêu cái mà quạ kêu Quạ kêu nam đáo, Đắc đáo nữ pḥng, Người dân khác họ Chẳng nọ thời kia Nay ziề mai ở Bằng ngày th́ mắc cở Tối ở ơ ở quên ziề Rằng a ư a ta ziề T́nh thương nhớ thương. Rằng a ư a ta ziề T́nh thương nhớ thương.
Một bài lư khác, Lư Chuột Kêu là câu ca dao : Chuột kêu rút rít trong rương Chàng zô bước nhẹ, đụng giường, má hay...
... cũng có thể được hát với nguyên điệu của Lư Quạ Kêu và cũng với những câu thơ thêm vào để cho bài hát thêm phần ngộ nghĩnh : Kêu cái mà chuột kêu Kêu cái mà chuột kêu Chuột kêu rút rít Rút rít ở trong rương. Chàng zô đây bước nhẹ Chẳng lẹ làm chi Đi th́ đi cho nhẹ Trèo zào th́ cho khẽ Chớ để đụng giường Rằng a ư a đụng giường Th́ ba má hay ! Rằng a ư a đụng giường Th́ ba má hay !
8) Thêm tiếng giả thanh Cũng có nhiều khi, v́ ư nghiă của bài hát hát lư mà những tiếng đệm, tiếng lót trở thành tiếng giả thanh như tiếng mèo kêu, tiếng hít bánh chẳng hạn... Lư Con Mèo nguyên văn là câu lục bát :
Mèo nằm bồ lúa vểnh râu Thấy con chuột chạy, ngóc đầu kêu ngoao.
Trở thành bài hát, tiếng giả thanh được tận dụng : Mèo nằm bồ lúa (ta lới lới) vểnh râu (à lới vênh t́nh rồi lới vênh râu ở) Thấy con chuột chạy (không bắt) Ngóc đầu (ta lới) kêu ngoao! (Kêu ngoao ngoao ! T́nh rồi kêu ngoao ngoao ớ)
Lư Bánh Ít có tiếng giả thanh ngửi và hít hương thơm của cái bánh :
Ai mua bánh ít (á lu hội y) bán cho (Hít hít bán cho) Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa (Hít hít) ngọt ngon.
Hát Lư Với Các Thể Thơ Khác
Thể song thất/lục bát cũng dễ dàng trở thành hát lư, với bố cục giữ nguyên vẹn câu thơ và chỉ thêm tiếng đệm, tiếng lót. Ví dụ bài Lư Kéo Chài :
Gió lên rồi căng buồm cho xướng Gác chèo lên, ta nướng khô khoai. (Ḥ ơ...) Nhậu cho tiêu hết mấy chai (Khoan hỡi khoan ḥ) Kẻo ghe (mà) nghiêng ngửa (Khoan hỡi khoan ḥ) Không ai chống chèo! (ơ ơ hờ, là ḥ ơ...)
Thơ bốn-chữ cũng được dùng trong thể loại dân ca này, ví dụ Lư Cây Đa, Lư Đ̣ Đưa, Lư Khỉ Đột, Lư Ba Cô... Bố cục giản dị, dùng nguyên vẹn câu thơ có tính chất "vè" và có thêm vào những tiếng hát phụ Lư Cây Đa
Trèo lên quán giốc Ngồi gốc (ối a) cây đa (Rằng tôi y y lư ối a cây đa) (2 lần) Ai (ư) xui (ôi a tính tang ư t́nh rằng) (cho đôi) ḿnh gặp Xem hội (cái đêm) trăng rằm (Rằng tôi y y lư ối a cây đa (2 lần)
cũng là thơ bốn chữ được hát lên :
Gió đánh (ố mấy đưa a) đ̣ đưa Gió đập (ố mấy đưa a) đ̣ đưa Sao cô (là cô) ḿnh măi Lửng lơ (mà) chưa (có) chồng ? (2 lần)
Thơ bốn chữ cũng là lời của bài Lư Khỉ Đột : Ngó (ngó) lên chót vót (Bân rồi lại cầy bân) Thấy (thấy) con khỉ đột Nó ăn (nó ăn) trái bần. (Bân rồi lại cầy bân)
Cũng với điệu Lư Khỉ Đột này, ta có thể hát những câu thơ b́nh dân bốn chữ nói tới chuyện ba cô con gái chưa chồng, và đặt tên bài là Lư Ba Cô:
Ngó (ngó) lên ḥn đá (lá) Có lá tía tô Ngó (ngó) lên xóm bụt (có) Ba cô chưa chồng (Bông ứ bập bồng bông) (2 lần)
Qua bài tiểu luận này, chúng ta đă thấy rơ thể dân ca hát lư thoát thai từ ca dao mà ra, trong đó các loại thơ 4 chữ, lục-bát, song thất/lục bát đều có nhiều bố cục khác nhau để đi từ thi ca tới âm nhạc. Đồng thời chúng ta cũng biết lối đặt tên của các câu, các bài hay các điệu hát lư.