Members Login
Username 
 
Password 
    Remember Me  
Post Info TOPIC: Tho BUT TRE


Trưởng Lăo

Status: Offline
Posts: 441
Date:
Tho BUT TRE


Ngô Minh
Ngẫm chuyện Bút Tre
(Tham luận tại Festival Thơ Huế do Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và tạp chí Sông Hương tổ chức ngày 02.6-06.6.2006)
 

Tôi đến Phú Thọ hai lần, lần nào cũng nghe kể chuyện Bút Tre, nghe đọc thơ Bút Tre. Chuyến đi Đền Hùng tháng Tư năm 2006 vừa rồi, tôi mua được cuốn Bút Tre - Thơ và giai thoại [1] do họa sĩ - nhà văn Ngô Quang Nam sưu tầm và giới thiệu. Tôi đọc và thấy có nhiều điều tâm huyết cần suy nghĩ về thơ cũng như văn chương nghệ thuật trong thời đổi mới. Thơ Việt từ khi có chữ viết đến nay đều bắt nguồn từ ca dao dân ca chốn làng quê mà thành, nên chúng ta hay gọi là Thơ Ca. Ca rồi mới đến Thơ (tức là từ dân gian đến bác học). Cũng có lối đi “từ bác học” đến dân gian. Ví dụ ca dao ḥ vè, các lối hát quan họ, ca trù, xẩm, v.v… đa phần là sáng tác của các nhà thơ, các thầy đồ hay chữ, được dân gian hóa mà truyền đời này qua đời khác. Có một lối đi từ văn chương bác học đến thơ ca dân gian nhưng vô cùng khác lạ mà lư thú, không giống ai: Đó là lối thơ Bút Tre! Từ nhiều năm nay, nghĩ đến thơ Bút Tre là tôi nghĩ ngay đến một cách chơi thơ tài tử, tài t́nh, nó là sự cách tân, làm giàu câu thơ Việt.

Trong lịch sử thơ ca nước ta có lẽ tôi chưa biết có một nhà thơ nào sáng tạo ra một cấu trúc thơ riêng của ḿnh có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống sinh hoạt xă hội của người Việt như Bút Tre. Thơ Bút Tre sinh ra từ những năm 60 của thế kỷ trước. Chỉ sau đó 5 năm thôi, thơ Bút Tre đă được “nhân bản” thành các ḍng thơ hậu Bút Tre ngay khi ông c̣n sống, như Bút Tre trẻ, Bút Tre non, Bút Tre xanh, Bút Tre Tây... Bây giờ th́ dân ta ai cũng thuộc những câu thơ hậu Bút Tre: “Anh đi công tác Pley / Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra” hay “Núi Voi trông thật giống con voi / Có cả đầu đuôi, có cả ṿi / Núi cũng như người hăng sản xuất / Đầu th́ trồng sắn, đít trồng khoai...” Chắc chắn cuộc sống càng phát triển, th́ ḍng thơ Bút Tre ngày càng sinh sôi.

Vậy thơ Bút Tre có phải là thơ không? Ḍng thơ đó sinh ra trong hoàn cảnh nào? Và tại sao nó lại được công chúng khắp cả nước truyền tụng, “nối mạng” liên tục như vậy? Nhà “Bút Tre học” Ngô Quang Nam qua cuốn sách đă cho chúng ta hiểu về thơ và giai thoại Bút Tre . Nhưng có thể do bối cảnh, ông chưa muốn lư giải kỹ nguyên nhân tại sao lại sinh ra ḍng thơ Bút Tre. Đây là một vấn đề xă hội học và lịch sử văn học nghiêm túc cần phải được nghiên cứu thấu đáo. Bài viết này cố gắng lư giải đôi phần câu hỏi tại sao có thơ Bút Tre và thơ Bút Tre đă làm giàu câu thơ Việt như thế nào?



*


Bút Tre không phải như nhiều anh nông dân thông minh biết đặt vè, nói lối mua vui cho bà con khi ruộng đồng cuốc cày vất vả, thường xuất hiện ở nông thôn nước ta bao đời nay. Ngay ở làng Thượng Luật của tôi hiện nay cũng có tới vài ba người như thế. Bút Tre là bút hiệu của ông Đặng Văn Đăng, nguyên Trưởng Ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ, rồi Vĩnh Phú. Ông sinh năm 1911, tốt nghiệp tú tài Tây toàn phần về triết học; là người sử dụng thành thạo hai ngoại ngữ tiếng Pháp và tiếng Anh (đọc tiểu thuyết nguyên bản bằng hai thứ tiếng này). Ông từng viết báo, viết truyện in trên báo Đông Pháp thời Pháp thuộc, kư tên là Lục Y Lang (Chàng trai áo xanh). Sau năm 1945 ông hoạt động ngoại giao, từng làm Bí thư thứ hai Đại sứ quán Việt Nam ở Rumani. Năm 1956 ông là bí thư của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Ông từng có tập thơ Nhật kư thơ gồm 398 bài thơ Đường luật niêm luật rất chỉnh chu, v.v… Nghĩa là ông là một người được học hành đến nơi đến chốn, một trí thức “toàn ṭng”. Khi làm Trưởng Ty Văn hóa tỉnh, ông là người đề xưởng khai mở nhiều vấn đề lớn về văn hóa của đất nước như nghiên cứu “Văn hóa Hùng Vương”, phát động phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” sau chuyến đi thăm tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng B́nh. Ông chính là người đă có công ghi lại (theo kiểu thơ) để lưu truyền câu nói nổi tiếng của Bác Hồ tại Đền Giếng, khi Bác về thăm Đền Hùng: “Các Vua Hùng đă có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Một trí thức như thế không thể làm thứ thơ “ngớ ngẩn”, “ngô nghê, vô bổ” như một số người thời đó đánh giá được!

Bút Tre sinh ở xă Đồng Lương, huyện Sông Thao, Phú Thọ. Đây là vùng đất có truyền thống văn hóa dân gian rất phong phú. Làng Đồng Lương xưa kia sinh ra nhiều cây sáng tác vè xuất chúng. Có lẽ ông Đặng Văn Đăng cũng là “hậu sinh khả úy” của làng. Sinh thời ông Đặng Văn Đăng luôn luôn ứng tác thơ ca, vè để phục vụ cuộc sống. Thơ “xuất bản miệng” của Bút Tre nhiều vô kể. Kể cả khi là Trưởng ty Văn hóa, kư quyết định phân công công tác cho một cán bộ về ngành bảo tàng, ông cũng chua thêm thơ: “Chú về công tác bảo tàng / Cũng là công cuộc cách màng giao cho”. Ông để lại rất nhiều bản thảo các tập thơ viết về Nguyễn Trăi, Nguyễn Quang Bích... C̣n thơ xuất bản, ông có các tập: Quê hương Phú Thọ, Phú Thọ lớn lên, Rừng cọ đồi chè, Sông Lô sông Chảy, Đồng tâm thắm thịt thắm da... do Sở Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản. Ông viết trường ca tặng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trường ca tặng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trường ca về Điện Biên tặng Đại tướng Vơ Nguyên Giáp dài hàng trăm câu thơ song thất lục bát. Thơ Bút Tre giản dị, hồn nhiên, ông tự gọi thơ ông là ca vè: “Tre bút ca vè, tre triệu búp / Tiên phong dẫn xướng gợi đổi mở”. Nhưng có lẽ thơ Bút Tre nằm giữa thơ và ca, vè, khi th́ thơ, khi th́ vè, nên nhân dân rất dễ thuộc, dễ nhớ, dễ tiếp nhận và truyền tụng. Viết về Bác Hồ, ông có câu thơ có h́nh tượng đẹp: “Bác là ḍng suối mát tươi / Tưới đồng khô cạn, tắm đồi nẻ da”. Tôi đọc, thấy thơ Bút Tre chưa phải là thơ hay, thậm chí nhiều dưới mức trung b́nh, chủ yếu là để cổ động tinh thần sản xuất chiến đấu như thơ nhiều tác giả cùng thời. Ví dụ bài thơ “Cô lái máy cày” có đoạn: “Nhịp máy rập rờn, tay em đẩy / Con ḱm cặp mạ nhả từng phen / Cô đi mạ nở theo chân bước / Đồng lúa xanh rờn dưới gót sen...”

Nhưng điều đặc biệt là trong thơ Bút Tre xuất hiện những câu thơ với h́nh ảnh, cách ngắt câu mạnh bạo, bắt vần rất lạ, rất đắc địa. Chính những câu thơ này làm nên sức sống và sức lan tỏa của thơ Bút Tre. Viết về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có câu: “Anh đi đồng ruộng lắng nghe / Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn” (“Bút Tre dân gian” mới sửa lại: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng”). Thơ tặng cô bán quả vải, ông viết: “Yêu nhau bóc vỏ áo ra / Trong như ngọc, trắng như ngà em ơi...”. Đặc biệt trong trường ca tặng Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Bút Tre có hai câu thơ xuất thần, đột khởi làm nên thương hiệu Bút Tre lưu truyền hậu thế và tạo nên nhiều thế hệ Bút Tre mới sau này. Đó là câu lục bát:


Hoan hô đại tướng Vơ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về

Trong lịch sử thơ lục bát Việt Nam chưa có ai ngắt nhịp 6/8 chia đôi họ tên một người nổi tiếng như thế cả. Cách bắc cầu trong thơ lục bát như thế gây nên tiếng cười sảng khoái và ám ảnh. V́ chưa hiểu “phong cách thơ Bút Tre”, nên nhiều nhà thơ chuyên nghiêp, nhiều nhà quản lư văn hóa đă cho rằng thơ như thế là thô thiển, văng mạng, là vô lễ với Đại tướng, có người c̣n cho là phản động, v.v… Nhưng càng đọc, càng ngẫm, mới thấy với cách ngắt nhịp câu lục bát rất ga-lăng và bạo dạn ấy, Bút Tre đă bắt được cái hồn dân gian Việt với cái chữ “ta” tài t́nh, làm giàu có thêm cho thơ Việt: “Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về”. “Giáp ta” cũng như "Đảng ta", "dân ta", "nước ta", "làng ta" v.v…, là tự hào vỗ ngực, là thương yêu, chứ không hề hạ thấp hay vô lễ ǵ cả. Đó chính là chất dân gian hiện đại mà Bút Tre đă phát hiện ra. Hai câu thơ đó đă tạo nên loại thơ “Hoan hô” rất phong phú của hậu Bút Tre: “Hoan hô trung tá Phạm Tuân / Bay lên vũ trụ một tuần về ngay”; “Hoan hô đồng chí Hà Đăng / Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa” (Hà Đăng là Tổng cục trưởng Tổng cục Đường sắt lúc ấy); “Hoan hô đồng chí Trần Hoàn / Lên làm bộ trưởng chiếu toàn phim Tây”... Có người cho rằng “Hoan hô Đại tướng Vơ Nguyên...” là bắt chước “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu. Đúng là Bút Tre có “bắt chước” Tố Hữu ở câu lục, nhưng lại tạo ra sự đột biến ở câu bát bằng cách ngắt nhịp “Vơ Nguyên / Giáp ta” làm cho câu lục bát bị găy, tạo nên tiếng cười khoái cảm, có sức lưu truyền, làm cho dân nhớ về chiến thắng Điện Biên không thua kém thơ của các nhà thơ nổi tiếng khác!

Ngoài lối ngắt nhịp đột ngột nói trên, trong thơ Bút Tre c̣n có rất nhiều cách như chặt từ, để lửng từ, lối ép vần, ép thanh, biến thể lục bát v.v… Đây là những sáng tạo quan trọng trong tu từ và cấu trúc thơ Việt, làm cho câu thơ mang chất uy-mua, chất ngây thơ, rất dân dă mà rất hiện đại. Xin nêu vài ví dụ:

Lối nói tắt:


Bây giờ đang đứng Trưởng ty
Bút Tre thơ phú tôi th́ có sau (“đứng”, tức giữ chức vụ)

Lối ép vận:


Chú về công tác bảo tàng
Cũng là công việc cách màng giao cho

Biến thể lục bát:


Đường đời mê mải tham quan
Để cho tiếng hát cây đàn hơi chơi vơi

Câu bát đă biến thành 9 chữ. Có lẽ từ đó mới xuất hiện lối nói hiện đại của lớp trẻ: hơi bị điệu, hơi bị đẹp, hơi bị say...

Lối lửng vần: Viết về một chiến sỹ giữ cầu cho xe qua, Bút Tre nhớ ngay đến câu ngạn ngữ “Qua sông đấm ḅi vào sóng”, nhưng ông lại viết khác đi:


Bút Tre chẳng như mọi người
Qua sông... nhớ măi nụ cười chú em

Đọc “nụ cười” nhưng người ta lại nghĩ ngay đến h́nh ảnh trong câu ngạn ngữ. Cách chọn từ để gieo vần như thế, người đọc sẽ tự t́m lấy những từ “đắt giá” theo đúng vần điệu và ư thích của ḿnh, nhằm gây tiếng cười sảng khoái. Sinh thời mỗi lần ra Huế nhà thơ Thu Bồn hay đọc một câu thơ mà bạn bè chọc trêu ḿnh theo lối Bút Tre: "Thu Vân ngâm thơ Thu Bồn / Thu Bồn cảm động cầm tay Thu Vân" v.v.. Từ đó “hậu Bút Tre” sáng tác ra hàng ngàn câu thơ ép vận, bỏ lửng... làm cho cuộc sống thêm vui nhộn. "Liên hoan chỉ có nải chuồi / Ra về nhớ măi cái buổi hôm nay..."

Th́ ra câu thơ Việt, con chữ Việt có nội lực tiềm ẩn rất lớn, nếu ta mạnh dạn cách tân cấu trúc, tu từ, sẽ tạo nên sự khoái cảm thẩm mỹ mới lạ! Những sáng tạo lạ lùng và hiệu quả đó của Bút Tre là nguồn gốc sinh thành Trường phái Bút Tre Việt Nam mà hàng thế kỷ qua không có nhà văn, nhà thơ lớn nào tạo dựng được!

Bút Tre là bút danh ông Đăng tự đặt. Ông viết rằng “thơ Tố Hữu khêu gợi Bút Tre”. Khi ông đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có hai câu: "Nhà nghèo không mực th́ son/ Bút tre giấy má nuôi con học hành”. Ông liền lấy hai chữ Bút Tre làm bút danh của ḿnh. Tại sao lại là Bút Tre? Bút Tre là để đối chọi với Bút Sắt. Tại sao phải đối chọi? V́ một thời “các nhà thơ ‘bút sắt’ của ta đều làm thơ nghiêm túc quá, ít chất thi sĩ lăng tử. Làm thơ, làm nghệ thuật là “sự chơi” ở đời, mà chẳng ai biết chơi cả. Những “nhà thơ nhà nước” ấy nói năng thưa dạ chỉnh chu, thơ văn th́ nghiêm như báo cáo, từ chương, không ai dám sáng tạo ra điều ǵ về h́nh thức và nội dung ngoài những điều trên dạy, sách dạy. Thậm chí có ai làm khác đi, làm mới đi câu thơ Việt th́ lập tức các nhà thơ “bút sắt”, các nhà phê b́nh xúm nhau lại để “giáo dục”, “uốn nắn” nhằm “lập lại trật tự”. Bút Tre là một ví dụ, ông đă bị chế giễu, dè bỉu, thậm chí có người c̣n đề nghị kiểm điểm, nghĩa là “Oan như oan Kim Ngọc khoán chui”! Có thể nêu hàng trăm ví dụ về những cuộc “đánh đấm”, “răn dạy”, "xay bột”... như thế trong mấy chục năm qua và hiện nay mỗi khi có những đột khởi khác lạ về văn chương, nghệ thuật. Có thể trong thâm tâm, Bút Tre cho rằng làm thơ từ chương, thơ “nghiêm như họp” ấy làm sao mà vào được ḷng dân, nên ông quyết “tuyên chiến”, “thách thức” đối với loại thơ “bút sắt” ấy bằng lối tu từ chọc cười tài hoa của ḿnh. Và ông đă thành công ngoài sức tưởng tượng! Có một nhà thơ “bút sắt” đă viết bài in báo ca ngợi Bút Tre:


... Gieo vần găy nửa nhịp câu
Giữa ḍng bạt mạng ngắt câu ngang phè
Mà sao ai cũng thích nghe
Cứ nghe là biết Bút Tre là cười
Bao nhiêu Bút Sắt ṃn rồi
Hôm nay c̣n măi với đời Bút Tre

Sức sống của Bút Tre chính là nhờ sự cách tân câu thơ, chữ thơ Việt!

Sinh thời h́nh như thơ Bút Tre không được tờ báo hay nhà xuất bản nào ở trung ương in cả, v́ người ta cho đó thơ ngô nghê, buồn cười. V́ là Trưởng Ty Văn hóa, Đặng Văn Đăng phải tự kư giấy phép để Ty xuất bản thơ của ḿnh, nên những người “bút sắt” không hiểu ông đă lu loa lên rằng: đó là thơ bậy bạ, tự kư tự in như thế nguy hiểm quá, phải kiểm điểm, phải chấn chỉnh. Những lúc đó ông buồn lắm, nên trách đời: "Thêm bao bịa đặt cá nhân xuyên” (“xuyên” đây là xuyên tạc - lại nói tắt!). Ông tâm sự:


Mở ca vè, dẫn lối ca vè
Trớ trêu văn nghệ không thừa nhận
Xuyên suốt ḷng dân luống đợi chờ
Lịch sử quanh co trêu ghẹo măi
Nhân tài bất hạnh lặng im tờ...

Nhưng ông nhất quyết không bỏ lối thơ ḿnh đă chọn. Sách Bút Tre - Thơ và giai thoại kể nhiều giai thoại về Bút Tre rất lư thú: Một lần một nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội lên Phú Thọ chơi. Sau khi nghe Bút Tre đọc một số bài thơ, nhà văn bảo: "Tôi sẽ nhờ anh Xuân Diệu sửa giùm những bài thơ của anh” . Ông Đăng trả lời ngay: Thưa anh, anh Xuân Diệu làm “thơ bác học”, tôi “làm vè dân gian”. Anh Xuân Diệu là “Bút Máy”, tôi là Bút Tre, Xuân Diệu chữa thế nào được thơ tôi!”. Một lần khác, các nhà văn Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng v.v… đi thực tế ở Phú Thọ. Sau khi nghe mọi người đọc một số câu thơ hậu Bút Tre như: "Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc phân xanh đầy chuồng”, “Con ruồi là giống hiểm nguy / Một chân của nó rất vi trùng nhiều”... th́ các nhà văn này cho rằng phải đính chính trên báo để “giải oan cho Bút Tre”, v́ một người trí thức Tây học không thể viết thứ thơ như thế. Khi người cán bộ kể với ông Đăng chuyện này, ông cười bảo: "Đố cậu đính chính nổi. Ai lại dùng thơ văn bác học để sửa lại thơ văn dân gian". Người cán bộ hỏi tiếp: "Đă là thơ dân gian sao lại có tên tác giả là Bút Tre hở bác?”. Ông cười bảo: “Đó là thơ dân gian hiện đại”. Rồi ông nói tiếp: "Cậu có biết v́ sao các loại kiểu thơ Bút Tre người ta lại thích không?" Ông cán bộ: "V́ những câu thơ hồn nhiên, buồn cười hở bác?" Ông Đăng mới kết luận: “Ấy đấy, v́ thơ văn các cậu ‘nghiêm như hội nghị’ ấy mà lỵ...” Theo nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn (Phú Thọ), những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, nghĩa là măi 20 năm sau thơ Bút Tre ra đời, nhà văn Nguyễn Tuân - một bậc thầy về chữ nghĩa - đă nhắc nhở những người lănh đạo văn nghệ Vĩnh Phú và Hội Nhà văn Việt Nam cần phải nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng thơ Bút Tre. Có lẽ lúc đó Nguyễn Tuân đă nhận ra sức sống của Ḍng thơ Bút Tre.

Qua những giai thoại trên ta thấy việc tạo ra những câu thơ “giả vờ ngây ngô” gây cười bằng cách xáo trộn cấu trúc câu, vần, chữ... là có chủ đích của Bút Tre. Tôi nghĩ, Bút Tre đă làm ra loại thơ ca gây cười để giễu cái thứ văn chương “nghiêm như họp” ấy. Ông cố t́nh viết như thế và ông tin: “Năm năm dân dă lắng nghe / Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng”, bởi v́ “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn / Cây đa bến cũ vẫn ngồi nguyên”. Nghĩa là nền tảng văn hóa dân gian muôn đời, là hồn dân tộc vẫn c̣n nguyên vẹn trong tâm hồn và thơ ông. Nên “Mai sau kẻ đoái người hoài, mặc! / Hạnh phúc hôm nay mát dạ người." Bút Tre không mong mai sau có người nhớ ḿnh, nhưng rơ ràng thơ Bút Tre người ta vẫn nhớ, vẫn sinh sôi măi măi. Con người cần vui để sống, cần vui cười để lao động, học tập tốt hơn, nên thơ hậu Bút Tre sinh sôi nảy nở.

Ngẫm về Trường phái Bút Tre, người viết bài này muốn bày tỏ một ư nguyện: Các nhà thơ, nhà văn cây đa cây đề, các nhà phê b́nh, các nhà quản lư văn hóa văn nghệ hăy biết trân trọng nâng niu chờ đợi cái mới, cái khác lạ, dù nó mới ra đời, v́ biết đâu nó sẽ làm nên một ḍng thơ, một trào lưu văn chương mới mẻ hơn, được người đọc tán thưởng. Chữ Việt, câu lục bát Việt là cái muôn đời. Nhưng chữ Việt, câu lục bát Việt không phải là cái bất biến. Chỉ cần một sự đổi mới về tu từ, về cấu trúc câu như Bút Tre, câu thơ Việt đă mang chất lượng nghệ thuật mới mẻ. Nếu cái lạ, cái mới vừa ra đời đă bị chửi mắng, vùi dập th́ làm sao thế hệ 8X, 9X làm nên được tiếng thơ của riêng ḿnh?

Huế, 5.2006
Trich: Talawas

__________________
Page 1 of 1  sorted by
 
Quick Reply

Please log in to post quick replies.

Tweet this page Post to Digg Post to Del.icio.us


Create your own FREE Forum
Report Abuse
Powered by ActiveBoard