Tac Gia : Ho Dac Duy Trong các truyện cổ tích th́ từ hàng ngh́n năm trước người nước ta đă có tục nhuộm răng, theo truyền thuyết tục này đi cùng với tục xăm ḿnh và ăn trầu. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm ḿnh chứ tục nhuộm răng th́ không thấy “... rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ h́nh thủy quái vào ḿnh. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Thái , Si La ... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ư nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm như người Thái ở Việt Bắc th́ họ nhuộm răng và ăn trầu là làm cho răng bền chắc tránh sâu răng.
Suốt trong thời niên thiếu th́ người con gái Thái chưa, chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu. Cách nhuộm răng của họ cũng khác với người kinh, để làm sạch răng họ phải chà sát nhiều lần bằng một miếng cau khô sau đó dùng lưỡi dao hoặc lưỡi thuổng cùn hơ cho vừa nóng, rồi rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra mà không cháy thành than. Chờ cho bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy nhựa đó miết vào răng. Miết cho đến lúc chất nhựa này bọc hết hai hàm răng mới thôi. Trong ṿng 7 dến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non.
Tục nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (Giao Chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu "Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen...".
Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm ḿnh. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoă tóc hoặc tết đuôi sam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều ṿng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu (Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xă Hội, 1971, tr. 48).
Trong bài hịch của Quang Trung năm 1789, trước lúc xuất quân có câu liên quan đến tục nhuộm răng
Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
C̣n trong văn chương, ca dao th́ tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua
Và để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của ḿnh:
Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bỏ công trang điểm má hồng răng đen.
Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Trong truyện Kiều có những câu liên quan đến cái răng nhưng không phải bởi cái màu răng đen hạt huyền mà là bởi trận băo ghen tuông của Hoạn Thư :
Vội vàng xuống lệnh ra uy Đứa th́ vả miệng, đứa th́ bẻ răng.
Trong những thói tục của người dân quê nước ta th́ trẻ con bị găy răng, nếu là răng hàm dưới th́ vứt răng xuống gầm giường, nếu là răng hàm trên th́ vứt lên mái nhà và hô 3 tiếng cho “ ông thiêng ” nó tha đi để cho mau mọc răng.
Thầy nhuộm răng
Thông thường người ta chỉ nhuộm răng sau khi đă thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm v́ lúc ấy răng c̣n non, độ thấm cùa thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người b́nh dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng giới giàu có hay quư tộc, quan lại lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp gia truyền khác nhau. Huế là nơi c̣n lưu giữ được nhiều công thức chế thuốc nhuộm răng cũng như các thứ thuốc để duy tŕ mầu đen bóng của răng.
Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Từ thuở mười ba, mười bốn tuổi, trai gái đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng nhiêu khê, phải trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài một tuần có khi đến nửa tháng và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết đưọc công thức pha chế của họ.
Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó... Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5 , 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, c̣n như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi
Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi dầy bụng cho trẻ sơ sinh... Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên ḿnh được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu câu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử , ḷng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biêt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô ... để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lư của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngăi... Đến năm 1949, không hiểu tại sao ông già mù hát vè bị Tây bắt và lôi ra bắn chết dứơi dốc cầu An Cựu. Cả nhà bà thầy Thại dọn đi đâu mất trong ngày hôm ấy, nghe đâu mấy năm sau có người gặp bà ở cửa Tranh Đề.
Cách nhuộm răng :
Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt mầu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuôm răng th́ miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẻ và chân răng phài lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được.
Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoạc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng "mềm" đi, tính acid của chanh sẽ bào ṃn tạo thành những vệt lơm sần sùi trên men răng. Thơi gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong ṿm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7 –10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới.
Đến sáng bà thầy sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc c̣n sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khỏang thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt trửng thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các bà thầy cho các người nhuộm răng ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dể nuốt trửng. Khi thấy răng có mầu đỏ già, mầu của cánh kiến th́ việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộn đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày.
Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột măng cầu.
Công thức pha chế của thuốc nhuộm răng
Thuốc nhuộm rănggồm các thành phần căn bản như sau :
- Bột nhựa cánh kiến.
- Nước cốt chanh
- Phèn đen
- Nhựa của gáo dừa
Nhựa cánh kiến
Sâu cánh kiến đỏ c̣n gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae).
Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quư có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học…
Laccifer lacca
Sâu cánh kiến đỏ c̣n gọi là bọ rùa cánh kiến đỏ hoặc rệp cánh kiến đỏ có tên khoa học là Laccifer lacca Kerr thuộc họ sâu cánh kiến (Lacciferidae).
Sâu cánh kiến đỏ chích và hút nhựa cây chủ tiết ra một loại nhựa gọi là nhựa cánh kiến đỏ. Đây là một loại đặc sản quư có giá trị kinh tế cao, hiện tại được sử dụng trong một số ngành công nghiệp cao cấp và y học…
Ở nước ta có gần 60 loài cây trong rừng tự nhiên hay rừng trồng có thể làm cây chủ để sản xuất ra nhưa cánh kiến có chất lượng tuyệt hảo như các cây họ phèn, cọ khiết, muồng đen, sung, vả, vải, nhăn, đậu thiều, táo... trong đó cọ phèn, cọ khiết và nhất là đậu thiều cho cánh kiến có chất lượng cao nhất.
Người ta chọn những cành cây chủ có sâu cánh kiến định cư phát triển tốt, không bị nấm mốc sâu bệnh. Cánh có lớp nhựa dày, sáng màu và đă chín thành thục. Khoảng 1 tuần trước khi kiến nở tiến hành cắt kiến giống, đem buộc thả ngay lên cây chủ, hoặc trải mỏng trong sọt tre thông thoáng để nơi râm mát ít ngày rồi đem buộc lên cây chủ. Trước khi buộc thả giống phải phát luỗng cây cỏ xâm lấn, tỉa cành, tạo tán cho cây có nhiều cành bánh tẻ càng tốt. Thời vụ: tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9. Thời điểm thu hoạch: tốt nhất trước khi kiến nở 2-4 tuần.
Nhựa cánh kiến bán trên thị trường
Tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả ngừơi ngừơi dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng. Kể từ khí nền văn minh tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào nước ta (1862) nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đă để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuờ mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xă hội, phong trào đ̣i nữ quyền, giải phóng, phong trào tiễn phát đang râm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xă hội có hai phái ḱnh chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo tây, làm me tây... c̣n nhóm kia th́ cho rằng bối tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Bấy giờ người ta chỉ thấy, chỉ đánh giá cái bề ngoài mà không chú trọng cái nhân cách, tư tưởng ở bên trong... Đấy là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm răng ở nuớc ta.
Riêng cá nhân tôi th́ hàm răng óng ả hạt huyền là một h́nh ảnh đẹp nhất trong đời niên thiếu, bởi v́ mẹ tôi và các d́ tôi là những người có những hàm răng với những chiếc răng đều đặn, óng ả đen mượt tựa hạt huyền, cho đến khi bà cụ 92 tuổi bà vẫn c̣n lại được 6 cái răng đen. Nét duyên dáng, móm mén với những chiếc răng thế kỷ làm cho khuôn mặt của bà đôn hậu và vui hơn, tôi nghĩ có lẽ khi ba tôi cưới mẹ tôi phần nào có thể là :
Răng đen ai nhuộm cho ḿnh Cho duyên ḿnh đẹp, cho t́nh anh say ?
Tac Gia :Vơ Quang Yến Bác sĩ Hocquard kể chuyện vào cuối thế kỷ 19, một vị quan ta được mời dự một dạ hội tại dinh Thống sứ Pháp ở Sài G̣n. Thấy vị quan măi ngắm quan khách khiêu vũ, một sĩ quan Pháp lại th́ thầm hỏi ư kiến ông ta về các phụ nữ Pháp. Vị quan thành thật trả lời : "Các bà đẹp lắm, có điều răng các bà giống như răng chó !" (1). Ư ông muốn nói răng các bà quá trắng. Lẽ tất nhiên, viên sĩ quan Pháp rất ngạc nhiên nhưng ông ta không hiểu đuợc một người Việt hồi đó không thể h́nh dung một người đẹp mà không có hàm răng đen lánh đă được hằng bao thế hệ văn, thi, họa sĩ ca tụng.
Nhớ hàng tre thẳng đọt măng
Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền
Phong tục nhuộm răng, xâm ḿnh khởi đầu từ thuở thượng cổ xa xăm, truyền thuyết đặt vào thời đại Hùng Vương. Nếu thói xăm ḿnh về sau được bỏ, tục nhuộm răng thành công tồn tại qua nhiều thời buổi, ngay cả lúc quân đô hộ Trung Quốc bắt dân ta băi bỏ. Nhưng tục nhuộm răng cũng như tục búi tóc không chống cự lại đuợc ảnh hưởng Tây phương và chỉ hơn một nửa thế kỷ là dần dần các cụ chịu cắt tóc, các bà cạo răng trắng (3). Nghe nói những cô giáo là những người đầu tiên không muốn giữ răng đen nữa nhưng sáng đi sớm, chiều về muộn, luôn phải t́m cách lẫn tránh cha mẹ c̣n cho đàn bà con gái có răng trắng là không đứng đắn. May mà các bác lính thợ tùng chinh sang Mẫu quốc c̣n giữ răng đen. Nghe nói lính ta nhỏ con, thường bị quân Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Một sĩ quan Pháp, để tránh lôi thôi, phiền nhiễu, bèn phao tin đồn mà ông bịa đặt : những người có răng đen ăn thịt người ! Từ đấy lính thợ ta được yên thân…
Tôi c̣n nhớ hồi nhỏ, mỗi khi mẹ tôi hay chị tôi nhuộm răng là cả nhà rộn rịp v́ các bà tự nhuộm lấy, không qua tay các thầy nhuộm như ở các gia đ́nh quan lại, ông hoàng bà chúa, cung tần mỹ nữ,… Những người ngoại quốc, ngay cả bây giờ, thường tin ăn trầu th́ có răng đen. Họ không dè muốn có hàm răng đen đẹp phải mất biết bao công phu, chịu đựng, chuẩn bị kỹ càng, chế biến chất thuốc, kiên nhẫn nhuộm răng rồi sau đó c̣n phải săn sóc, bảo dưỡng cho lớp sơn luôn được láng bóng. Nhuộm răng cũng như sơn mài, trước cần phải có một mặt nền sạch sẽ. Thường trong luôn hai, ba ngày, các bà phải đánh răng, xỉa răng với vỏ cau khô hay than bột trộn với muối sống hầm chín, nhai chanh lát, rồi súc miệng với rượu trắng pha nước chanh. Các bà không biết nhưng từng trải qua kinh nghiệm, đă t́m ra trong chanh citric acid là một acid nhẹ có khả năng đánh gỉ, chùi sạch men răng. Tuy nhẹ, acid cũng tác dụng ít nhiều lên môi, lưỡi, nếu răng,…gây nhức đau tưởng như hai hàm răng lung lay, rụng được. Trong giai đoạn chuẩn bị nầy cũng như các giai đoạn sau, các bà không được nhai đồ ăn dai, cứng như thịt mà phải nuốt trửng cho nên thường người ta cho ăn bún trộn mỡ heo hay ăn cháo và trái chua, uống nước nóng.
Kỹ thuật nhuộm răng nhiều đợt
Nhuộm răng có nhiều phương pháp, tùy theo từng vùng. Ở miền Trung, nhất là ở Huế, nơi có nhiều vua chúa, quan lại, ăn chơi lịch sự, liều thuốc rất nhiều, lắm khi gia truyền cần giữ bí mật (2). Nói giản tiện, thường răng đuợc nhuộm làm hai đợt. Đợt đầu xem như là lớp sơn lót, nhuộm với một hỗn hợp cánh kiến, nước chanh vắt, rượu trắng, cho nấu thành hồ, phết lên lá chuối hay lá dừa, lá cau, có khi lên vải thô hay lụa, rồi cho áp vào răng, nhiều lần trong một đêm, cho đến lúc răng nhuốm màu cánh gián, giữa đỏ và nâu đậm như màu cánh con gián. Sáng hôm sau phải cẩn thận lột lá hay vải ra, súc miệng với nước mắm hảo hạng hay nước dưa chua để loại trừ mọi căn bả. Bây giờ có thể qua đợt thứ nh́, nhuộm với một hỗn hợp hắc phàn, thanh phàn, bầu bí, lựu b́, quế chỉ, đại hồi, đinh hương được nấu nóng, trộn với gạo nếp và rượu trắng rồi cũng cho áp lên răng nhiều lần, nhiều ngày cho đến lúc răng trở thành đen huyền. Lần nầy cũng lại phải súc miệng kỹ càng như sau đợt đầu để thải bỏ chất nhuộm dư thừa. Và sau nhiều ngày phải tránh nhai nhiều, nhai mạnh để khỏi làm tróc lớp sơn đang c̣n non, mềm.
Răng nhuộm xong c̣n cần phải chiếc để củng cố lớp sơn. Thường người ta dùng một lớp nhựa chảy ra từ một sọ dừa đốt cháy đặt trên một cái rựa sắt, đem bôi thành một lớp lên trên răng. Ở Huế, hai liều thuốc xỉa có tiếng để chiếc là cố xỉ tán và cố xỉ cao (2). Cố xí tán gồm có thanh phàn, hắc phàn, ngũ bội, cam thảo, b́nh lang, tế tân, bạch chỉ, tam lăng, nhũ hương, nghiền thành bột rồi dùng que tăm đập nát một đầu để tô lên răng. Cố xí cao gồm có những chất vừa kể, thêm vào sinh địa, tật lê, cánh kiến, một dược, đương qui nấu trong nước sôi, cô lại thành cao trước khi dùng. Hắc phàn, thanh phàn là những sulfat sắt và đồng có nhiệm vụ ổn định chất sơn. Bầu bí hay ngũ bội, (hay ngũ bội tử, là túi con sâu Schlechtendalia sinensis Bell trên cây muối hay diêm phu mộc Rhus semialata Murray), lựu b́ (tức là vỏ cây Punica granatum L. đem lại tannin có tính chất làm xẩm màu lá hái như chè, thuốc lá, cà phê , chống oxi nên bảo quản gỗ được lâu ngày và nhất là tác dụng lên da, gây tê, cầm máu, giải độc, kháng sinh). C̣n những chất quế chi (cây Cinnamomum loureirii Nees hay C. zeylanicum Nees, chữa cảm mạo, tê mỏi), đinh hương (cây Syzygium aromaticum (L.) Merr. et Perry., chữa cam răng, đau bụng), cam thảo (thân rễ cây Glycyrrhiza uralensis Fish. hay G. glabra L., chữa ho hen, loét dạ dày), b́nh lang (trái cây cau Areca catechu L., chữa giun sán, viêm ruột lỵ), tế tân (cây Asarum sieboldii Miq., chữa đau răng, cảm lạnh), bạch chỉ (rễ cây Angelica dahurica Benth. et Hook., chữa lở mồm, hôi miệng), nhũ hương (nhựa cây Pisticia lenticus L., chữa đau sưng, tiêu nhọt), sinh địa (thân rễ cây Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Lobosh, chữa đau răng, chóng mặt, ho khan, bệnh lao), tế tân (trái cây Tribulus terrestris L., chữa đau mắt, kinh nguyệt không đều), một dược (nhựa cây Commiphora momol Engler, thuốc điều kinh, giảm đau, tiêu thủy), đương qui (cây Angelica sinensis (Oliv.) Diels, chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược), đại hồi (trái cây Illicium verum Hook., thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa), ngoài tính chất dược liệu, là những chất thơm cống hiến hương vị cho liều thuốc nhuộm. Được bảo vệ cẩn thận, răng nhuộm có thể tồn tại mươi, hai mươi năm, màu đen huyền luôn lóng lánh giữa hai đôi môi, không th́ những lớp sơn tróc ra, những vết vàng lạt hiện lên răng gọi là răng cải mả, phải nhuộm lại. Trái lại, từ răng đen muốn trở lại trắng cũng không phải dễ v́ những phương pháp dùng acid mạnh hay mài răng đều không thích hợp, có thể làm hư răng.
Ngày nay người trẻ tuổi khó ḷng cảm xúc trước một nụ cười với hai hàm răng đen. Nhưng nhuộm răng không phải chỉ là một vấn đề mỹ quan mà c̣n có một lư do thực dụng : từ lâu người ta đă nhận thấy răng nhuộm đen ít bị sâu răng. V́ vậy có vài luận án nha y quan tâm đến đề tài nhuộm răng. Ngoài công tŕnh của nha sĩ Vũ Ngọc Huỳnh ở Hà Nội (4), trong số những luận án tồn trữ ở Trường Đại học Nha y Paris, phần lớn các tác giả cốt yếu chú trọng đến phong cách, tập quán nhuộm răng (7). Hai nha sĩ Phùng Thị Cúc (sau nầy trở thành nhà điêu khắc có tiếng Điềm Phùng Thị) và phu quân Bửu Điềm (thầy cũ Anh văn của tôi ở Trường Trung học Khải Định) th́ dựa lên công tác của nhóm Nguyễn Dương Hồng ở Hà Nội để đề nghị dùng nhựa sơn trong việc pḥng ngừa bệnh sâu răng (5). Nhưng đi sâu vào khoa học nhiều nhất có lẽ là luận án của nha sĩ Trần Văn Phú, dùng nhựa sơn để lấp bít những khoảng trống tí hon trong răng (6). Th́ ra, ông cha ta xử lư rất khoa học. Trước hết, như đă thấy, muốn thuốc dính chặt vào men răng, cần phải gây một mặt răng sần sùi. V́ men răng không xốp, một dung dịch acid yếu như citric acid trong chanh đủ để mài mà không đào những lỗ quá sâu làm hư men răng. Bên phần nhựa sơn cũng cần một trạng thái dễ trải với những hột sơn kích thước hiển vi có thể lọt vào bất cứ khoảng trống ở nào. Với một đường kính 17-20 angstrom, hột sơn nhỏ hơn một con trùng như streptocoque đến 250-500 lần, dễ dàng trám hết mọi lỗ hết c̣n chỗ cho vi trùng.
Bọ cái phát tiết sáp nhựa
Từ lâu người ra đă biết cây sơn Rhus vernicifera sp. hay R. succedana L., thuộc họ Xoài Anacardiaceae, có nhựa nhưng không dùng được trong miệng v́ chất laccol rất độc. Nhựa trong thuốc nhuộm răng được lấy ra từ một côn trùng cánh nửa hemiptere tí hon (0,60-0,70mm) sống kư sinh từng tập đoàn từ 80-100 con (ở Việt Nam trung b́nh 170 con) trên thân, cành nhiều loại cây ở Đông Nam Á. Con sâu nầy tùy tác giả được gọi Tachardia lacca R. Bld., Carteria lacca Sign. hay Coccus laccae Kerr, trước khi mang tên thông dụng ngày nay Laccifer lacca Kerr, thuộc họ Sâu cánh kiến Lacciferidae ****erell. Tachardia, Carteria từ Tachard (1709), Carter (1861) là tên những nhà khoa học đă khảo cứu và miêu tả nhựa sâu như Kerr (1781), Roxbary (1796). Lacci nguồn gốc từ tiếng Ấn Độ lakh hay Phạn tự laksha nghĩa là trăm ngàn v́ số lượng sâu trên cây nhiều vô kể, từ đấy phát xuất những danh từ Âu Mỹ lak, lac, laque.
Sâu chọn làm giống được buộc vào cây, có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi lưới rồi mắc lên cành, ở chỗ phân nhánh để sâu ḅ sang nhiều cành. Sâu hút nhựa cây mà sống, trưởng thành lớn lên thành bọ mới phân hóa đực, cái. Cả hai loại (hai phần ba là cái) cùng nhau làm tổ trong vỏ cành cây, tổ loại đực h́nh thoi, mỏng và nhỏ, tổ loại cái h́nh tṛn, lớn hơn. Bọ đực thoát xác, mọc chân, mọc cánh, có thể di động được để đến với bọ cái. Trong lúc đó bọ cái nằm yên trong tổ, chỉ ḷi bộ phận sinh dục ra ngoài để giao cấu. Làm xong nhiệm vụ, bọ đực kiệt lức chết đi, hy sinh cho giống ṇi. Bọ cái có chửa, phồng lớn, cho phát tiết sắc tố và và sáp, nhựa để nuôi nấng và bảo vệ bầy con sắp đẻ. Mỗi bọ cái có thể mang đến một ngàn trứng (ở Việt Nam, trung b́nh từ ba đến bốn trăm trứng) h́nh bầu dục nhỏ, dài, chen lấn trong một túi dung dịch nhuộm màu đỏ son rất đẹp. Ấu trùng từ trứng nở ra, ăn sắc tố mà lớn lên làm dung dịch đặc lại, khô dần. Oái ăm thay, sâu càng trưởng thành th́ tổ mẹ càng chật ra, bọ cái dần dần bị ngạt chết, cũng hy sinh cho giống ṇi như bọ đực, sâu con không chịu đựng được nữa, luồng qua xác mẹ để thoát ra ngoài, bắt đầu một chu kỳ khác. Mỗi năm có hai chu kỳ. Những bọ đực mùa đông nhờ có cánh có thể bay qua thụ tinh những bọ cái ở các cành xa. Theo nguyên tắc, mỗi năm có thể lấy nhựa hai lần, song ở Việt Nam v́ khí hậu ít ôn hoà nên chỉ thực hiện được một lần. Ở Mộc Châu, thả 5kg giống trên cây vải, nhựa thu hoạch được là 200 kg. C̣n sắc tố cấu tạo trong tổ cho sâu con có thể thu hoạch cùng lúc với nhựa, nhiều khi trước khi trứng nở nhưng như vậy th́ mất đi một lứa sâu mới (*) .
Bản chất của các cây trú sâu có ảnh huởng rất lớn lên nhựa sơn. Chúng phải mọc ở những vùng không quá nóng, không quá lạnh, cần ẩm ướt nhưng đừng mưa quá nhiều. Ấn Độ là nước sản xuất nhựa nhiều nhất trên thế giới, khoảng 50.000 tấn mỗi năm, xuất cảng qua Hoa Kỳ, Indonexia, Canada, Đức, Nhật, Pháp, Nga ,… Bên nước ấy, nhựa sơn hảo hạng được lấy từ những cây kusum Schleichera trijuga Willd., dhak Butea frondosa Roxb., arhar Cajanus indicus Sprengl hay C. cajan (L.) Mills. Ở Việt Nam, cây trú sâu mọc trong khoảng cao độ 400-700m. Ta cũng có cây kusum gọi là dầu trường hay cọ phèn (lúc trước dầu dùng để gội dầu, nhân hạnh thế đào lạc trong bánh trái), cây dhak gọi là giêng giêng (vỏ cây tán với gừng để đắp lên vết rắn hay ḅ cạp cắn), cây arhar gọi là cây đậu thiều hay đậu săng (cây thường được dùng để chữa đau xương mỏi chắc). Ngoài ra sâu nhựa cũng ăn bám trên các cây chưng bầu Combretum quadrangulare Kurz (trái và vỏ cây được dùng làm thuốc trừ giun), dầu dầu Schleichera oleosa (Lour.) Oken., bồ đề Ficus religiosa L., sen cát Shorea cochinchinensis Pierre, lá ngón Pterocarya tonkinensis Dode, ba chế Desmodium cephalotes Wall., hay một số cây ăn quả như vải Litchi sinensis Radk., táo Ziziphus mauritiana Lamk., nhăn Euphoria longan (Lour.) Steud.,… Nhựa sơn bên ta tùy theo địa phương được gọi cánh kiến (hay cánh kiến đỏ), cành kiến, kiền kiến,… nên có sự ngộ nhận : có người cho là cánh con kiến, có người hiểu là cành cây kiến, có người lại tưởng là thân con sâu kiền kiến hay kiến vương,…
Ngày nay trên thị trường người ta phân biệt ba loại nhựa sơn : nhựa thô lấy từ thân, cành cây ra c̣n chứa tạp chất như vỏ cây, lá cây, sâu non, xác bọ, đậm màu, gọi là sticklac tức là nhựa thỏi. Dùng nước chiết xuất để đào thải sắc tố, đem phơi khô, giă nát rồi rửa lọc các tạp chất th́ được nhựa màu đỏ vàng, c̣n chứa chút ít sáp, gọi là seedlac tức là nhựa hột. Lại tiếp tục rửa nước, làm ṛng, lọc sạch, có khi tẩy trắng với một dung dịch alcali hypochlorit (11) th́ nhựa tinh khiết màu vàng lạt mang tên shellac tức là nhựa vẩy. Làm lớp sơn lót trong giai đoạn nhuộm thứ nhất, nhựa sơn đóng vai tṛ chủ chốt v́ trực tiếp kết dính men răng. Tuy được chú ư từ những thế kỷ 18, 19, nhựa sơn chỉ bắt đầu được khảo cứu tường tận từ đầu thế kỷ 20 rồi bật tung vào những thập niên 70, 80. Chính vào những năm nầy mà nảy nở những luận án nha y đề cập đến vấn đề dùng nhựa sơn để nhuộm răng (4-7) .
Khi khảo sát seedlac của cây palas, nhóm Mhaskar-Sukh Dev (18) dùng ethanol pha nước khử sáp rồi lấy ether làm kết tủa "nhựa cứng" tách nó ra khỏi phần "nhựa mềm". Phần "nhựa cứng" c̣n gọi "nhựa ṛng", chiếm 70% tổng số nhựa cây, được đem phân tích qua các phương pháp sắc kư lớp mỏng và giấy (18de). 12 acid đă được xác định (18d) : butolic (14b,18b,20) , aleuritic (12ab,13,18b), jalaric (18ab), shellolic (10,12a,24), epishellolic (18ab,24a), laksholic (18b), epilaksholic (18b), laccijalaric (18c), laccishellolic (18c), epilaccishellolic (18c), laccilaksholic (18d) và epilaccilaksholic (18d) acid cùng 18 amin acid (22). Nếu những tên shellolic, lacksholic, laccishellolic, laccilaksholic acid dĩ nhiên từ shellac, lakh mà ra, những tên butolic, jalaric acid lấy gốc từ những tên cây trú sâu Butea monosperma Lamk., jalari Shorea talura Roxb. Hai aleuric và butolic acid là những phân tử dài, mở, những acid khác đều là những dẫn xuất của một ṿng terpen. Bên cạnh các acid nầy, nhóm Gardner (12) c̣n chiết xuất ra được những kerrolic acid (12d), laccolic lacton (12cd), periolic acid (12c).
laccaic acid A
laccaic acid B
laccaic acid C
laccaic acid D
C̣n hai hóa chất quan trọng trong nhựa sơn là hai sắc tố màu vàng erythrolaccin (23) và màu đỏ laccaic acid (8ab,15,23b). Cấu tạo cả hai có đồng sườn anthraquinon mang ba hoặc bốn nhóm hydroxy ; laccaic acid có thêm hai nhóm acid và một nhóm keton. Sắc tố nầy được khai thác trong thực phẩm (15), mỹ nghệ (19). Vải bô nhuộm với sắc tố nhựa sơn có khả năng khử trùng chống Escherichia coli, Bacillus subtilis, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa (21).Gần đây cây đậu săng Cajanus cajan (L.) Mills được khảo cứu tường tận hơn. Lá cây chứa một số hóa chất như vitexin, salicylic acid, henritriacontan, laccerol, longistylin, pinostrobin, b-sitosterol, b-amyrin,… (9). Mục đích các nhà khảo cứu là t́m một cây trú sâu cống hiến đủ điều kiện để có nhựa sơn tốt (17). Theo đông y, nhựa sơn có tác dụng làm thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm máu, đậu chẩn, tuy vậy ít được dùng làm thuốc. Sách xưa có nói đến chống thổ tả, trừ nôn mửa, tiêu chảy. Shellac phát triển nhiều hơn trong mặt kỹ nghệ. Được nói nhiều nhất là nguyên liệu để làm dĩa hát, bắt đầu với những dĩa 78 ṿng mà phần lớn chúng ta đều biết cách đây một nửa thế kỷ, ngày nay khó chóng chỏi với nhựa nhân tạo. Nhựa sơn là một chất chịu acid, cách điện, chống tia cực tím, c̣n được dùng để làm vec ni, mực in, thuốc xức tóc, khuôn răng giả, bao chống ẩm, tô nón nỉ, đánh bóng sàn nhà, đồ gỗ, tre, vải, da,… (*)
Ngày nay, nha y dùng nhiều nhựa nhân tạo để lấp bít các lỗ hổng trong răng. Những nha sĩ tôi gặp không có ai chịu hưóng về nhựa sơn dù là một hóa chất thiên nhiên có nhiều tính chất tốt về sức kết dính, độ thấm nước (rất cần để xử lư trong miệng luôn có nước miếng), thêm vào một kích thước khá nhỏ để dành chỗ các enzym, vi khuẩn có thể làm hư răng. Ngành nha y ta có nên chăng tiếp tục khảo cứu (4,5) để dùng trong công cuộc pḥng ngừa bệnh sâu răng ? Nhựa sơn tẩy trằng có thể là một thuốc nhuộm răng trắng, bảo vệ men răng.
Trích Thông tin Khoa học và Công nghệ (4) (1997) 61-66 (có sữa chữa và bổ túc tài liệu)
Tham khảo
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 676
1- Dr Hocquard, Une campagne au Tonkin, Hachette, Paris(1882) ; Arlea, Paris in lại (1999) 122
2- A. Sallet, Les laquages des dents et les tinctures dentaires chez les Annamites, Bull. Amis Vieux Hué (4) 15 (1928) 223
3- Nguyễn Văn Kư, La société vietnamienne face à la modernité, l’Harmattan, Paris (1995) 231
Vài luận án nha y vế nhuộm răng
4- Vũ Ngọc Quỳnh, Le laquage des dents en Indochine, Hà Nội 1937
5- Bửu Điềm, Phùng Thị Cúc, Le laquage des dents auVietnam. Le shellac en dentisterie préventive, Paris 1973
6- Trần Văn Phú, La résine gomme laque. Orientation des recherches vers son emploi dans l’obturation des micro-espaces des dents, Paris 1975
7- Tô Huệ Mỹ (bà Lê Văn Lư), Le laquage des dents. Contribution à l’étude des mœurs et coutumes de l’ancien Viet Nam, Paris 1973 ; Trân Thị Phùng Giao (bà Hồ Vơ Tuân), Réflexions sur le laquage des dents au Vietnam, Toulouse 1978 ; Claude Bosq, Noircissement des dents en Asie orientale, Paris 1982 ; Cyril Bourgaux, Pratiques traditionnelles, culturelles et rituelles intéressant les tissus durs et mous de la cavité buccale en Asie et Océanie tropicales, Bordeaux 1989
Nhựa sơn
8- Nhóm Burwood : a) R. Burwood, G. Read, K. Schofiels, D.E. Wright, J. Chem. Soc. (1965) 6067-73 ; b) id. (1967) 842-54
9- D. Chen, H. Li, H. Lin, Zhongcaoyao (10) 16 (1985) 2-7
10- Nhóm Cookson-Morisson : a) R.C. Cookson, N. Lewin, A. Morisson, Tetrahedron18 (1962) 547-58 ; b) R.C. Cookson, A. Melera, A. Morisson, id. 1321-3
11- M.O. Faruq, M.I.H. Khan, M.M. Alam, M.Z. Haque, M.A. Rahman, Bangladesh J. Sci. Ind. Res.(3-4) 27 (1992) 134-40
12- Nhóm Gardner : a) B.B. Schaeffer, Wm.H. Gardner, Ind. Eng. Chem. 30 (1938) 333-6 ; b) B.B. Schaeffer, H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 451 ; c) H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 454-8 ; d) Wm.H. Gardner, Official Digest Federation Paint and Varnish Production Clubs (1938) 473-8 ; e) P.M. Kirk, P.E. Epoeri, Wm.H. Gardner, J. Amer. Chem. Soc.63 (1941) 1243-6
13- B.S. Gidvani, J. Chem. Soc. (1944) 306
14- Nhóm Gunstone : a) W. Caruthers, J.W. Cook, N.A. Glen, F.D. Gunstone, J. Chem. Soc.(1961) 5251-4 ; b) W.W. Chritie, F.D. Gunstone, H.G. Prentice, id. (1963) 5768-71
15- K. Harada, R. Higuchi, A. Ohwa, T. Ohtsubo, Japan 75 13,298 (1975) 3 tr.
23- Nhóm Venkataraman : a) N.S. Bhide, A.V. Rama Rao, K. Venkataraman, Tetr. Letters (1) (1965) 33-5 ; b) E.D. Pandhare, A.V. Rama Rao, R. Srinivasan, K. Venkataraman, Tetrahedron Suppl. (1) 8 (1966) 229-39
24- Nhóm Yates : a) P. Yates, J. Amer. Chem. Soc. 82 (1960) 5764-5 ; b) P. Yates, A.C. Mackay, L.M. Pande, M. Amin, Chem. Ind. (1964) 1991 ; c) P. Yates, G.F. Field, Tetrahedron 26 (1970) 3135-58 ; d) P. Yat’es, P.M. Burke, G.F. Field, id. 3159-7