- Thầy ơi, có cái bài thơ này đây, trong cuốn Giảng văn cũ của má con. Thơ ǵ mà ngó ốm nhách.
- Sao lại có thơ ốm nhách ? Thơ hay thơ dở chớ sao lại có thơ mập ốm ?
Mỗi câu chỉ có 5 chữ nên bài thơ ngó dài ngoẵng. Đây con đọc cho thầy nghe:
Giỏi thay Trần Quốc Toản
Tuổi trẻ dư can đảm
Dốc bụng báo hoàng ân
Cả gan b́nh quốc nạn
- À, biết rồi. Tại mỗi câu chỉ có năm chữ. Đây thầy hỏi em: bảy chữ, chữ Nho gọi là Thất ngôn, vậy năm chữ gọi là ... ?
- Tứ ngôn.
- Trật lất. Tứ mới có bốn. Ngũ mới là năm. Thể thơ vừa rồi là thơ Ngũ ngôn.
Hạ Uyên nài nỉ:
- Thầy bày cho con đi! Thầy dạy con ...
- Không dạy cũng biết. Dễ lắm. Cứ bài Thất ngôn, con cắt bỏ hai chữ đầu của mỗi câu. Thử lấy bài "Heo...Gà" làm thí nghiệm.
Hạ Uyên chạy lục kiếm bài thơ. Rồi dơng dạc đọc:
Trong vườn Địa đàng:
Gấu Sói Nai Voi Cá Cọp Beo
Trâu Ḅ Chó Chuột Ngựa Dê Heo
Vịt Gà Ngan Ngỗng Cu C̣ Cút
Cá Ốc Cua Tôm Cá Mực Mèo
Tôi không ngờ kết quả hấp dẫn hơn tôi đă nghĩ, nên tôi bảo: Ngũ ngôn hóa nuôn bài tả bé Nu.
Hạ Uyên không đợi nài:
Tả bé Nu:
Bé Nu chân ngắn bụng tṛn vo
Tuổi rưỡi mà đă thuộc chữ O
Rất thích mức gừng, ưa vặn khóa
Trở trời hết sốt lại ngồi ho.
Sang bài "Trăm hoa khoe sắc". Đang ở thể Thất ngôn luật Bằng vần Bằng mà cắt thành Ngũ ngôn th́ hoá thành luật Trắc vần Bằng. Hạ Uyên đọc:
Trăm hoa khoe sắc
Sen Đào Huệ Cúc Trúc Mai Lan
Vạn Thọ Hồng Nhung Thược Dược Trang
Mỏm sói Tầm xuân Lài Cẩm Chướng
Phù dung Dạ lư Bụt Ngâu Xoan.
Không bỏ lỡ bài thơ tặng, Hạ Uyên cố ư đọc to cho chị và anh nghe:
Chị thân thương của em
Chị cả ở nhà quen gọi Trúc
Học về chịu khó lo bếp núc
Cơm, canh xào, nấu, luộc, quay, ram ...
Bưng lên anh Hải tha hồ xúc.
Sau một giây im lặng, tôi nói:
- Vậy đó, muốn làm thơ Ngũ ngôn th́ cứ theo cái cấu trúc Thất ngôn, cắt bỏ 2 chữ đầu. Hôm nay thầy thêm 3 cách hiệp vần khác, do ảnh hưởng của cách hiệp vần trong thơ Pháp. Đó là:
1: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 2
Chữ chót của câu 3 hiệp vần với chữ chót của câu 4
2: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 3
Chữ chót của câu 2 hiệp vần với chữ chót của câu 4
3: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 4
Chữ chót của câu 2 hiệp vần với chữ chót của câu 3
Nghe th́ rùm beng. lộn đầu. Áp dụng ngay th́ thấy dễ. Nào, nói là làm. Em làm 4 câu Ngũ ngôn, hiệp vần theo cách thứ nhất (tạm gọi là Vần liền). Đề: "Tả em Cuội".
Tả em Cuội
Da trắng và mắt trong
Tóc nâu và môi hồng
Nhỏ mà ưa chải chuốt
Chữ O đọc không thuộc.
Áp dụng hiệp vần theo cách thứ hai (tạm gọi là Vần chéo). Đề: "Tả con chó nâu".
Con chó nâu của em
Vừa sủa vừa chạy lui
Giữ nhà cái kiểu đó
Tối: xó bếp ngủ vùi
Vậy cũng lănh chức chó.
Áp dụng hiệp vần theo cách thứ ba (tạm gọi là Vần ôm). Đề: "Ngày rằm lên chùa". Kết quả:
Ngày rằm lên chùa
Rằm theo Ngoại lên chùa
Nghe tiếng kinh tiếng mơ
Xạc xào nghe tiếng gió
Chốc chốc tiếng chuông khua.
Khi sắp chia tay Hạ Uyên bảo tôi:
- Thầy bày luôn cho con thể Tam ngôn.
- Là cái ǵ ?
- Tam nghĩa là ba. Thơ Thất ngôn cắt đi 2 chữ thành Ngũ ngôn. Nay thơ Ngũ ngôn ta cắt đi 2 chữ th́ ắt thành Tam ngôn.
Tôi cười:
- Em có ư hay đó. Nhưng tổ tiên ḿnh th́ gọi nôm na nó là Ḥ vèb́nh dân. Như ở quê thầy trẻ nhỏ thường hát:
Tập tầm vông
Chị lấy chồng
Em ở vá
Chị ăn cá
Em ăn xương
Chị nằm giường
Em nằm đất
Chị mút mật
Em nút ve
Chị ăn chè
Em liếm chén
Nh́n xuống đồng hồ thấy đă năm giờ rưỡi, tôi liền cười vừa cuối đầu chào: