Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp Em qua không kịp tội lắm anh ơi Thà rằng không biết th́ thôi Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn
(Dân ca Huế)
Văn hoá những chiếc cầu
Có một khái niệm tưởng như gần gũi và đơn thuần nhưng lại rất xa vời và trừu tượng, đó là khái niệm về Văn Hóa. Thời nhỏ, tôi thường nghe giới đàn anh hỏi thăm “Tŕnh độ văn hóa” của một người bằng cách đem chữ nghĩa thánh hiền ra đo, như “tŕnh độ văn hóa: Mù chữ, trung học, tiểu học, đại học...”. Lớn lên, tôi mới khám phá ra điều thú vị rằng: A th́ ra! Việt Nam ta là nơi duy nhất trong vũ trụ có “tŕnh độ văn hóa mù chữ”! Thế mà mấy bác Tây học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh lại viết: “Văn: Là vẻ đẹp, vẻ sáng...”. Mù chữ mà lại đ̣i đẹp và sáng th́ cũng như đêm ba mươi tối ṃ mà đ̣i trăng sao vằng vặc th́ kiếm đâu ra đường về để Hóa ra Văn!
Trong khi Đông Phương, văn hóa tiềm ẩn một vẻ đẹp mơ hồ và một thiên năng cao cả, th́ Tây Phương thực tế hơn, văn hóa là cách thể hiện kinh nghiệm sống. Nhất là Mỹ, những nhà hoạt động văn hóa đă đập vỡ và vun quén lại khái niệm văn hoá cổ điển từ thời tiền Victoria để đưa văn hóa xuống đường. Nhiều khái niệm văn hóa ra đời đến nỗi chẳng ai c̣n thấy “chướng” trước những khái niệm “văn hóa bên lề” (subculture) như văn hóa của giới đồng tính luyến ái, văn hoá những người sống vô gia cư, văn hóa giới nghệ sĩ, văn hóa giới quyền quư tiếng tăm, văn hóa vùng thường xuyên bị động đất, văn hóa khu cao ốc chọc trời...
Đi từ những bước nghênh ngang cao chênh vênh trong khái niệm “Văn Hóa Cao Sang” (High Cuture) của Matthew Arnold (1869) đến dáng là đà trong mớ hành lư bụi đời “Văn Hoá B́nh Dân” (Ordinary Culture) của Raymond Williams (1958), tôi bỗng hứng chí nhớ về và dừng lại bên những chiếc cầu từ thuở cây đa bến cũ rồi tự hỏi: “Có chăng Văn Hóa Những Chiếc Cầủ”. Rồi cũng hồn nhiên như anh Xă Xệ tin mặt trăng làng ta là sáng nhất, tôi trả lời rằng, “Có!”. Tôi tin là những chiếc cầu có nền văn hóa riêng. Những chiếc cầu khỉ đă nằm vắt qua suốt chiều dài của lịch sử. Rồi cầu tre (Anh thương em mấy nhịp cầu tre), cầu ván, cầu ao (Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi) . Cho đến cầu phao, cầu nổi, cầu sắt, cầu đá, cầu xi-măng, cầu chuồi, cầu gác, cầu treo... đă ghi dấu bao nhiêu thế hệ lịch sử, văn hóa.
Thuở c̣n bé ở quê nhà, mỗi chiếc cầu từ đầu làng đến cuối xóm đều gợi cho tôi một thế giới riêng tư nho nhỏ. Như Cầu Lừ, chiếc cầu khỉ èo ọp bằng tre đă chứng kiến bao nhiêu là tai biến của dân làng. Cầu Vượn, cầu Banh một đời chở đầy những mùa trăng lúa mới. Những chiếc cầu Việt Nam quản chi khó nhọc để quặn ḿnh nối hai bờ anh em hay thù nghịch. Có những chiếc cầu nằm xuôi mái lặng lẽ mà sao đứng nh́n, tôi lại có cảm giác như mỗi thanh sắt vô tri và chiếc bù loon đang run lên bần bật. Đó là cảm giác thuở học tṛ được thầy giáo dắt ra thăm cầu Bến Hải nối liền – mà chia cắt – hai bờ sông Hiền Lương soi bóng hai màu cầu... lạnh lùng, rờn rợn. Cầu không dắt ta đi mà cũng chẳng đưa ta về. Có khi đi th́ c̣n, mà về lại mất. Mất khi trở về có nghĩa là đi không bao giờ trở lại.
Khái niệm văn hóa những chiếc cầu lớn hẳn trong ḷng tôi như một niềm thâm tín khi mùa Hè năm 2000 tôi ngỡ ngàng qua nhánh Tiền Giang sông Cửu Long bằng chiếc cầu treo “Bắc” Mỹ Thuận. Có lẽ cả nước đều mang chút tâm trạng ngỡ ngàng như thế khi đối diện với chiếc cầu treo tân kỳ mở màn đi vào thế kỷ 21 với nỗi ḷng Tú Xương: “Đêm nghe tiếng ếch bên tai; giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣!” Nh́n từ xa, tôi bỗng thấy cây cầu giống như cây đàn 128 sợi dây, một cây đàn đầy biểu tượng cho ngón đàn tài tử của dân Nam bộ. Đứng trên chiếc cầu lộng gió dài gần hai cây số với hai trụ tháp cao vút, khách vẫn c̣n mường tượng nghe tiếng máy phà mới hôm nào đây c̣n kḥ khè cuộn nước. Mùi nắng gió và phù sa lồng lộng thổi qua cầu vẫn chưa làm ai quên được mùi chim mía nướng than, mùi những xách hàng rong đủ vị và và khối âm thanh không tên tuổi nhưng thật thân quen trên bến phà thuở nọ. Chiếc cầu mới đang khởi sự một nguồn sống mới. Tôi cảm nhận được rằng, dù con người có muốn hay không, cây cầu với ngôn ngữ văn hóa lặng thinh hay lao xao riêng một cơi, vẫn đang tự nó ghi những ḍng đầu của cuốn sử đời ḿnh... như chuyện chiếc cầu trên sông Drina, trường ca cầu sông Kwai đă trở thành bất tử.
Tôi đă đi qua những chiếc cầu xa xứ với cái nh́n hiếu kỳ của người du khách và với một cảm giác thán phục bàn tay và khối óc tuyệt hảo của con người. Nhưng giữa cầu và tôi vẫn là hai thế giới, đi về không một chút vấn vương. Như h́nh ảnh nhà quư tộc cổ kính đi xe song mă, chiếc cầu treo của thế kỷ 20 là con đẻ của nền văn hóa cao ốc chọc trời.
Những chiếc cầu vang bóng như Golden Gate Bridge, Bay Bridge, Brooklyn... của Mỹ đều vươn những vài cầu cao vút tới những vùng giàu sang như San Francisco, Manhattan. Cầu Mirabeau của Pháp bắt qua ḍng sông Seine soi bóng tháp Eiffel uy nghi mà kiêu sa giữa ḷng kinh thành Ba Lê ánh sáng. Cầu Mỹ Thuận – chiếc cầu treo trẻ nhất của thế kỷ nầy– đă được thai nghén và h́nh thành trong một bối cảnh văn hóa khác hẳn với những chiếc cầu kia. Chiếc cầu đă vươn ḿnh qua sông phù sa vạn lư như con rồng chín khúc uốn ḿnh từ Tây Tạng về tới biển Đông. Ḍng sông vẫn c̣n nguyên nét sơ khai. Tôi qua cầu với tâm trạng đi vào cửa ngơ ngày mai của đồng bằng sông Cửu Long đang c̣n ngủ say trong màu xanh phủ hết chân trời của ruộng lúa, bóng dừa, vườn cây, kinh rạch và điệu lư qua cầu. Dáng nổi bật của cây cầu giữa một vùng mênh mông làm cho cây cầu chưa thuần với ḍng sông mà gợi lên một cảm giác thách thức. Đó là một cảm giác mạnh mà du khách thường nhắc tới khi đi qua cầu Akashi Kaikyo, chiếc cầu treo dài nhất thế giới – gấp ba lần cầu Mỹ Thuận – của Nhật bắc qua eo biển Akashi. Nhưng sự thách thức của cầu Akashi là những luồng sóng dữ, là sự đối mặt với cái uy vũ tàn bạo của thiên nhiên. C̣n sự thách thức của cầu treo Mỹ Thuận là sức bật khai phá của con người tương lai trên lối vào thế kỷ.
Từ khi chưa có bóng người trên trái đất th́ đă có hàng vạn ḍng sông. Và lịch sử con người lớn lên với những cây cầu cho bớt ngăn sông cách núi. Nhưng có được bao nhiêu ḍng sông thuộc về một vùng đất ở và có được bao nhiêu chiếc cầu thuộc về một ḍng sông trôi. Chiếc cầu chỉ thuộc về ḍng sông khi nào cầu không chỉ là phương tiện để vượt qua sông mà cầu chở ḷng người đến với ḍng sông. Hơn 2000 năm, cầu Luân Đôn trên sông Thames; 500 năm, cầu Mirabeau trên sông Seine; và 100 năm cầu Trường Tiền trên sông Hương không chỉ đưa chân người qua cầu mà c̣n đưa ḷng người trôi chảy dưới ḍng sông. Nguyễn Du, trong mắt nh́n Đông Phương, thấy cây cầu như là điểm hẹn của thiên nhiên, “Dưới cầu nước chảy trong veo, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, màø Appolinaire, trong cảm nhận đầy đam mê với chút váng vất siêu thực Tây Phương th́ thấy cây cầu trăm năm vẫn đứng đó nhưng bóng nó là khởiø điểm của từ ly: “Dưới cầu Mirabeau, sông Seine thầm lặng chảy. T́nh chúng ta đi măi, vui với sầu theo nhaụ”
Tôi lớn lên ở Huế. Rồi bỏ Huế mà đi.
Hành lư một đời để dành với Huế mà tôi mang theo cũng có thể là cả một gia tài mang đi không hết, mà cũng có thể chỉ là một búp sen đầu mùa mới nhú lên mà v́ thương màu hồng ngây thơ quá, tôi không nở hái mang theo. Xa Huế, tôi đă mang màu tím trong không gian Huế buổi chiều, mang mùi trầm hương từ mấy trăm ngôi chùa cổ, mang tiếng chuông công phu trong đêm khuya, mang rong rêu của ḍng sông có những bến đ̣ áo trắng mà đi. Mớ hành lư đó cần một chiếc va-li không giới hạn để đựng. Chiếc va-li không khóa, là trái tim vô ngă của Huế, là chiếc cầu Trường Tiền màu nhũ bạc trên ḍng sông Hương.
Chiếc Cầu trong tâm ảnh
Châu Thuận Hóa là ốc đảo của thiên nhiên Việt Nam suốt cả một thời quá khứ. Huế cách trở trong ḷng người xứ Bắc – Thương em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang – Và xa xôi lạ lùng quá đỗi với người phương Nam – Đi bộ th́ khiếp Hải Vân, đi thủy th́ khiếp sóng thần Hang Dơi. Thiên nhiên thuở nọ đă bắt Huế nằm im gối đầu Trường Sơn, co chân trên dăi đất hẹp giáp biển Đông như những ḍng sông bị cản chiều dài, cách trở chiều rộng, nên phải chảy vào bề sâu mà về lại trong ḷng. Bởi vậy cái đẹp của Huế là cái đẹp mang vẻ trầm lặng và cô tịch. Cái nên thơ của Huế là vẻ nên thơ trong mắt nai rừng lúc hoàng hôn: Vời vợi, hồn nhiên nhưng cũng trang đài và huyền hoặc. Dường như người Huế nh́n về quê người th́ thấy thấp thoáng bóng tương lai, mà nh́n về quê ḿnh th́ chỉ thấy toàn quá khứ. Phải chăng v́ thế mà người Huế thành người tù chung thân của quá khứ, thành kẻ hành hương quanh miếu đền kỷ niệm, những kỷ niệm thuộc về một thời “mô tê” lăng đăng như ca dao.
Huế có một ḍng sông và một chiếc cầu như ảo ảnh, đó là ḍng sông Hương đă trở thành ḍng thời gian và chiếc cầu Trường Tiền là bến đ̣ của dĩ văng. Ḍng thời gian vẫn luân lưu trôi chảy nhưng không già. Thời gian sẽ đẩy lùi quá khứ để mà quên và kéo dĩ văng trở về để mà nhớ. Mỗi năm, khi mùa Thu về, ḍng sông ấy vẫn xanh; vẫn trôi chảy âm thầm dưới chiếc cầu cong sáu nhịp có nét e ấp tṛn trăng đầy duyên dáng. Ḍng sông và chiếc cầu vẫn c̣n trẻ măi mà những hàng cây hai bên đường lại ngă màu. Thời gian cũng có nét buồn riêng của nó. Với Huế, nét buồn của thời gian là vết chân chim trên khóe mắt cười đă hết long lanh của cô học tṛ Đồng Khánh một thời áo trắng.
Một sớm mùa Hè năm 1954, sau khi rời bến xe Nguyễn Hoàng, tôi theo mẹ về chợ Đông Ba. Một sớm mai trên hè phố Huế, được ngồi bệt trên chiếc mũ đệm bên gánh cháo ḷng un khói và được ăn một tô cháo nóng hổi đă đời là cả một niềm hạnh phúc lớn lao mà rất ít đứa trẻ ở làng cùng lứa như tôi có được. Mùa Hè, mới nắng mai đă gắt. Vị cay và sức nóng bên trong của tô cháo ḷng, bên ngoài của nắng làm tôi ngầy ngật như say. Tôi chạy lúp xúp theo mẹ qua cầu mà chẳng thấy được ǵ v́ mồ hôi đổ dầm như tắm. Đến giữa cầu, cơn gió qua sông mát lạnh. Tôi không cần đưa tay áo quệt mồ hôi mà mắt mũi, mặt mày vẫn ráo hoảnh. Tôi ngước nh́n quanh. Cao vút trên đầu tôi là đường cong trắng vàng rực rỡ như thềm núi Trường Sơn có cầu vồng ra ăn mưa. Trước vẻ ngỡ ngàng của thằng con trai út chưa ra khỏi mấy lũy tre làng, mẹ tôi chợt nhớ ra và lên tiếng:
- Cầu Trường Tiền!
Cả một cơn sóng kư ức dội về. Tôi đă quen lắm từ bao nhiêu năm qua tiếng khóc trẻ thơ dịu dần trong tiếng ḥ ru em, vang lên ấm dịu, ngọt ngào từ xóm trên về xóm dưới. H́nh như tôi đă biết sâu lắm rồi mà vẫn hỏi. Hỏi như để khẳng định một t́nh yêu đang có mặt, nhưng cũng rất xa xôi:
- Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp đây phải không mạ hè?
Mẹ tôi thật vô t́nh. Mẹ không chia sẻ luồng gió mới đang mở phăng cánh cửa ḷng tôi, nên mẹ đă nói bằng ngôn ngữ thản nhiên, làm như tôi cũng đă có hơn nửa đời người quen thuộc với chiếc cầu nầy như mẹ. Không, tôi có riêng đôi mắt b́nh minh của trẻ thơ để khám phá ra “cái ông cầu” uy nghi vươn tay dài sáu khúc để nối liền bờ bên nớ bên ni. Tôi như một người nghèo cháy túi v́ không t́m ra được chút vốn liếng kinh nghiệm nào ở làng để so sánh với cả một thế giới lạ lùng, đồ sộ, xinh đẹp, cao sang, nhưng cũng mang vẻ ngự trị và bí ẩn chứa trong từng mảnh nhỏ của “ông” cầu. Tôi mơ hồ liên tưởng tới đường cong như cánh cung của cặp rồng uốn lượn trên nóc đ́nh làng để ví với dáng cong cong thon thả của những vài cầu lên xuống. Vài cầu đang ngự trên cao chót vót tận đọt tre lá ngà gần mây trắng, thấp dần xuống để soi ḿnh trên sông và từ từ vút cong lên trở lại. Tôi đếm thầm những cây quạt trắng khổng lồ ḿnh đă đi qua: Một, hai, ba, bốn, năm, sáu. Rồi những tảng mây trôi trên xa cho cây cầu đổi sắc làm tôi nhớ những giọt sương mai trên lưới nhện hoang giăng trên bờ cỏ dại ở đầu làng.
Có tiếng nổ rất xa, đâu từ phía núi. Tôi nhớn nhác bấu chặt tay mẹ. Mẹ tôi cười, nói một cách tự tin:
- Sáng ni đ́nh chiến rồi, sợ chi nữa!
Tôi nghĩ bụng, “Đ́nh chiến là cái ông nào mà to hơn gan cóc tía. Súng đạn không sợ th́ c̣n biết sợ ai!”. Tôi hỏi về cái ông “đ́nh chiến”. Mẹ tôi cười tội nghiệp rồi giải thích theo lối thông tin “Làng trên xóm dưới”:
- Th́ đ́nh chiến là họ kư hiệp định Giơ-Neo với nhau. Việt Minh, Bảo Vệ như chú Dưa, chú Cà không bắn nhau nữa. Mai mốt, ḿnh lên nhà trên kê phản ngủ. Rồi mạ tháo cái hầm làm chuồng heo, thả cặp heo tới tháng Chạp kỵ Ba, rồi ăn Tết. Tôi nín thở tận hưởng nguồn hạnh phúc tưởng tượng là từ nay, đêm đêm ḿnh sẽ thôi ngủ dưới hầm, khỏi ngửi mùi rễ tre lên mốc, khỏi nghe bầy mối nghiến tre trèo trẹo thâu đêm.
Nghe mẹ tôi vẽ bức tranh mơ ước, mấy người gánh gồng cùng chạy bộ qua cầu cũng hớn hở hỏi nhau:
- Ń, Thím nớ về mô? Đ́nh chiến rồi, hoà b́nh rồi, hết sợ súng đạn, ăn hột muối cũng sướng. Chừ lo về lại dưới làng cuốc đất mần ăn.
Cây cầu quanh tôi trắng tuyền như ngọc bích. Từ phút đó, cầu đă viết trong kư ức hoa niên của tôi những trang đầu tiên và kết tụ thành tâm ảnh: Cầu Trường Tiền đó, chiếc cầu chở hoà b́nh về lại quê xưa.
Rồi đời cứ theo ḍng. Năm năm, mười năm, hai mươi năm…... tôi đă đi về qua chiếc cầu đó; và hết một đời chiếc cầu đó sẽ soi bóng măi trong ḷng tôi.
Ḍng sông Hương là mẹ nuôi, đă trở thành mẹ hiền và xứ Huế quê ngoại đă trở thành quê hương yêu dấu của cầu Trường Tiền. Cầu chào đời ở tận bên Tây. Năm 1899 hăng Eiffel mang về Huế đặt bên cạnh kho đúc tiền nên mang tên là cầu Trường Tiền. Lên năm tuổi, mới học vở ḷng đường đi c̣n lót ván, trận băo năm Th́n 1904 đă xô ngă bốn nhịp cầu. Vè dân gian ghi lại rằng, “Nửa đêm băo tới th́nh ĺnh; cù lăn nổi dậy miếu đ́nh nghinh ngang...” và cù lăn đă “Xô cầu Trường Tiền ngă bốn, đốn cột cờ găy ba!”
Trường Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế. T́nh yêu chưa bước song đôi qua cầu là t́nh yêu chưa “chín”. Hận thù chưa giải được trên cầu th́ thù hận chưa nguôi. Uy vũ chưa tuyệt lộ trên cầu th́ chưa phân thắng bại. Đến Huế mà chưa đứng trên cầu là chưa vô tới Huế, chỉ mới “tạt” qua Huế mà thôi. Phải chăng v́ thế mà từ ngày có mặt, tuy nằm yên một cơi, Trường Tiền đă mang những vết hằn lịch sử sâu nặng nhất của một xứ Huế thăng trầm theo thế sự.
Ngày mới lớn lên ở làng, tôi thường nghe thế hệ đàn anh kể chuyện “Chiến sĩ qua cầu”. Câu chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng cái mốc “Thời Nhật đảo chánh”. Ngày ấy, thực tế lẫn huyền thoại “chống thực dân Tây xâm lăng” là một khúc anh hùng ca thôi thúc những tấm ḷng yêu nước lên đường kháng chiến. Mùa Đông năm 1946, những người trai quê và thôn nữ của làng tôi lũ lượt gánh ớt bột, mạt cưa, trấu, rơm rạ, và bùi nhùi để qua Huế đánh đồn Tây Ṭa Khâm. Nghe kể lại làø khi xông ớt, trấu, rơm rạ, mấy ả đầm và Tây con ở trên lầu cay mắt quá, khóc bằng tiếng Pháp (!), nghe thảm thiết như “mèo kêu” (?!). Các chiến sĩ chân đất làng ta không biết v́ động ḷng trắc ẩn hay v́ không chống nổi với súng đạn thiệt t́nh của quân Tây nên đă hè nhau chạy bộ qua cầu Truờng Tiền, băng qua đồng, trở về làng cũ hát t́nh ca Phạm Duy “Ngày nao ta phá tan đồn nó đi, sẽ thấy trên đường trở về, áo dài đùa trong nắng hè...” Làng tôi có khoảng mười “Chiến Sĩ Qua Cầu” và tất cả đều có một nỗi niềm chung là đầu hôm khi băng qua sông Hương, cầu Trường Tiền c̣n nguyên vẹn, nhưng khi trở lại sau nửa đêm gần sáng, cây cầu đă găy đôi! Những người trai quê và gái quê đêm đó đă khóc khi lội qua sông: Khóc cho một cây cầu thân yêu đă găy và buồn cho một ḍng sông không ấp ủ nỗi một cây cầu. Lịch sử sau nầy đă ghi lại rằng, nửa đêm 19 tháng 12 năm 1946, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân, ông Hà Văn Lâu, cầu Trường Tiền đă bị gài ḿn đánh sập để cản bước tiến của quân Tây. Ớt khô của ḷng yêu nước làm sao thắng được thuốc súng của xâm lăng! Anh hùng ca không chỉ là chiến lợi phẩm thu được trên chiến trường. Chiến sĩ làng tôi bỏ chạy, thế mà hào khí một thời vẫn c̣n cháy măi trong ḷng họ theo những câu chuyện kể không đầu không đuôi, nhưng bao giờ cũng cảm động khi đến đoạn một nhịp cầu Trường Tiền đă găy lúc nửa đêm...
Tôi là học tṛ từ làng quê lên Huế học. Thời tôi mới lớn, học tṛ nhà quê lên tỉnh học c̣n ít hơn là học tṛ các thành phố lớn được qua Tây, qua Mỹ du học.
Tôi ở trọ trong Thành Nội, học trường Quốc Học. Mỗi buổi sáng đi học, ra cửa Ngăn dọc theo bờ Bắc sông Hương, qua cầu Trường Tiền, đi ngược bờ Nam sông Hương. Băi học, về cầu Trường Tiền, vô cửa Thượng Tứ... Nhịp điệu đi về trên một chiếc cầu ngỡ như đơn điệu ngày lại ngày cả mười năm đó, thực ra, chẳng có bao giờ giống nhau như con nước bao năm qua trôi chảy măi dưới chân cầu mà vẫn không có một lần lập lại.
“Mỗi sáng sớm đi học, qua cầu khi gió ban mai c̣n nhẹ nhàng, mơn man tà áo, vuốt ve mái tóc thề, dỗ dành từng bước đi của người qua cầu, ánh sáng lấp lánh trên mấy vài mấy nhịp uốn cong, tuổi học tṛ thấy cuộc đời như trang vở đầu tiên của ngày tựu trường, con tim hồi hộp vui mừng nơi từng nhịp đi...
Cái ṿm trắng bạc có một chút kiêu sa phù phiếm. Mỗi bận qua cầu tôi có cảm giác như đi qua một đám mây phù du, một đoạn đường sương phủ hay đi vào một mối t́nh đầu không dài lâu; hoặc bắt đầu một cuộc đời lăng tử cũng không biết chừng.
Bước đi trên cầu trong ngọn gió sông Hương buổi sáng, khi chiếc cầu c̣n ngái ngủ trong khói sóng và màn sương, nh́n về phía Vĩ Dạ, có sóng nước êm đềm xanh một màu lục thủy, những chùm tre lă ngọn nơi phía Cồn Hến ẩn hiện đằng sau như vừa mới gội nước hồ thủy để xanh một màu xanh êm ả có thể làm mướt lại những con mắt suốt đêm thức trắng để “gạo” bài. Đến giữa cầu, ấy là lúc không thể nào không ngoảnh mặt về phía rặng núi Kim Phụng nổi hẳn lên trong dăy Trường Sơn kéo dài về hướng Tây Nam. Sông Hương mà không có dăy núi này đứng đợi như một tri âm vĩnh viễn th́ e sẽ là con sông thảm thiết không biết trôi về phương mô. Dăy núi ấy, xanh một màu xanh “xuân sơn” thăm thẳm, vừa huyền bí, vừa đa t́nh. H́nh như nhờ bóng núi xa xăm kia mà sông Hương trở thành huyền ảo, như có như không trong một nỗi thầm lặng miên man của ḍng nước chảỵ” (Thái Kim Lan)
Giờ đến trường và tan học, cả con đường, chiếc cầu và ḷng sông soi bóng đều sáng lên theo ḍng nón lá và áo trắng học tṛ. Ḍng suối trắng đó có lúc đầy giữa mùa Thu tựu trường, mùa Xuân nắng ấm; vơi dần giữa mùa thi sang Hè, và xám lại giữa mùa Đông co ro trong những chiếc áo mưa. Thế nhưng cũng có khi ḍng suối ấy khô quắt khô queo theo nhịp cầu găy đổ.
Chiếc cầu sáu nhịp nối liền hai bờ sông bên phượng, bên me. Huế cùng ḍng sông bên dưới và ḍng người bên trên th́ trôi chảy mà chiếc cầu th́ vẫn lặng im trong nắng trong mưa có vẻ như thường hằng, bất biến. Huế đă trải qua không biết bao nhiêu cuộc bể dâu, thế mà sự ngây thơ vẫn c̣n đeo đẳng. Có những tâm hồn đă thành sắt đá v́ chiến tranh; những cảm quan đă chai ĺ v́ súng đạn; những ước mơ đă cùn nhụt v́ thực tế chua cay... bỗng trở ḿnh một cách nhẹ nhàng, rồi thức dậy nh́n ḍng sông xanh bên dưới với đôi mắt trẻ thơ khi lững thững bước qua chiếc cầu màu nhũ bạc.
Phong cảnh trên cầu, ngày lụn tháng qua, đă trở thành Tâm Ảnh trong ḷng người lớn lên hay già đi cùng với chiếc cầu. Khi một bóng dáng đă trở thành tâm ảnh th́ sự hiện sinh của nó sẽ trở thành ảo ảnh. Như bóng dáng Kim Trọng thuở ban đầu “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” đă thành tâm ảnh trong một thế giới riêng của Thúy Kiều. Bởi vậy, trong ngày Kim Kiều tái hợp, chàng Kim bằng xương bằng thịt chỉ là một hiện sinh xa lạ. Nỗi đam mê cháy bỏng và sự khắc khoải đợi chờ “từ Lâm Truy em lạc tới Giang Hà” của Thúy Kiều đă miên viễn hướng về tâm ảnh. Buổi đoàn viên sau mười lăm năm luân lạc mà “đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ” là một phản ứng lạnh lẽo của tâm hồn. Phải chăng đó là một cách lẩn trốn dưới cán dù đạo lư khi lửa t́nh đă nguội! Cũng thế, những người xa Huế đă mang chiếc cầu trong tâm ảnh mà ra đi. Vô số chiếc cầu Trường Tiền đă bắt qua ḍng sông tưởng tượng trong tâm thức lăng mạn được thi vị hóa bằng chất men lưu đày nên càng… xa Huế, chiếc cầu và ḍng sông trong tâm ảnh lại hiện về càng rơ, bất chợt, không hẹn không ḥ. Tôi đă về lại Huế, nhiều lần đi trên chiếc cầu xưa mà vẫn quay quắt đi t́m. T́m chi? T́m chiếc cầu trong tâm ảnh - như ngày xưa vua Tự Đức đă có lần toan “Đập cổ kính t́m ra lấy bóng...”!
Sau biến cố Mậu Thân 1968, khi những đám cháy của bom đạn trên thành phố tan hoang vẫn c̣n bốc khói, tôi từ Cầu Kho Rèn, men theo dăy tường đầy vết đạn của Mô Ranh, băng qua cầu Trường Tiền để vào Thành Nội. Hai vài xương sống của Cầu Trường Tiền đă gục xuống giữa ḷng sông. Tôi cảm thấy nỗi buồn co thắt từ bên trong v́ mấy vài cầu găy đổ nằm sóng sượt dưới ḷng nước xanh rêu đă vùi dập tâm ảnh của chiếc cầu trong ḷng tôi. Tôi đứng lặng phía bên nầy cầu, hai vài cầu đứt đoạn như vẫn c̣n run trong dư âm của tiếng bom từ phía Trường Sơn không ngớt vọng về. Tôi nhắm mắt trong một giây để cố “bắt” chiếc cầu tâm ảnh vẫn c̣n nguyên vẹn trong tôi băng qua những nhịp cầu đă mất. Nhưng chiếc cầu tâm ảnh trong tôi sương khói quá mà sự đổ vỡ trước mắt th́ bạo liệt không cùng. Nh́n những vài cầu trắng vô tội nằm nghiêng đổ dưới ḍng nước sông Hương vẫn trong xanh và hiền ḥa trôi chảy, một cảm giác tội t́nh dâng lên khiến nhiều người đến cạnh vết đứt ở hai phía đầu cầu mũi ḷng lau nước mắt. Đừng nh́n vào tâm ảnh, có lẽ tôi sẽ dửng dưng đi qua chiếc cầu phao tạm thời rung rinh dưới chân, v́ trong cuộc chiến này, dọc quê hương khói lửa, tôi t́m đâu ra một chiếc cầu c̣n lành lặn để mà buồn.
Tháng 7 năm 1982, cầu Trường Tiền là “chứng nhân” cuối cùng của kẻ đợi bên cầu sắp bỏ Huế mà đi. Vào chợ Đông Ba, tôi đến khu bán áo quần cũ t́m mua một chiếc áo ka-ki, rồi vô quán hớt tóc, húi đầu cho ngắn lại và choàng thử chiếc áo ka-ki đă sờn hết cầu vai. Nh́n trong gương, tôi hơi yên tâm v́ thấy ḿnh cũng giống những người bạn đánh cá vùng biển phong sương của ḿnh. Chỉ c̣n mấy tiếng đồng hồ nữa là đến giờ hẹn. Xế chiều, gió sông lành lạnh, tôi lững thững qua cầu. Tôi nhớn nhác nh́n quanh, sợ gặp người quen, sợ nh́n người lạ. Huế là thành phố của tâm hồn và cảm tính nên cả ư nghĩ cũng phải mặc áo dài khi ra đường. Trong ḷng bất ổn, tôi có cảm tưởng ngọn gió qua cầu cũng biết hết nỗi ḷng thầm kín của ḿnh. Tôi ngờ ngợ với cảm giác h́nh như khách qua cầu, cũng đưa mắt nh́n ḍ hỏi v́ biết tôi sắp vượt biên tối hôm nay. Tôi cảm thấy nao nao và ḷng ḿnh thắt lại khi nghe tiếng loa dự báo thời tiết “Gió Tây Nam cấp 5, biển động!” Mặt nước sông Hương bên dưới như cũng cau mặt để sóng vờn xao xác hơn ngày thường. Từ trên vùng điểm hẹn của vài cầu, tôi đăm đăm nh́n về phía biển đông. Xa tít tắp khuất sau vùng cây xanh Cồn Hến, Vĩ Dạ là cuối nguồn sông Hương, nước dưới cầu sẽ trôi ra biển. Đêm nay, tôi và gia đ́nh cùng mấy người thân sẽ vượt biển. Từ Huế, vượt biển Đông sang Hồng Kông. Tôi vịn vào và bóp chặt thành cầu, một cảm giác run rẩy chợt đến khi nghĩ đến ngày mai, cũng vào giờ nầy không biết tôi có c̣n may mắn sống sót lênh đênh trên biển Đông, vật lộn với sóng gió cấp 5 hay đă ch́m sâu vào ḷng biển. Tôi ngước nh́n lên vài cầu cao h́nh cánh quạt trên đầu và khung trời xanh trên cao như một sự che chở. Rồi đây, nước xanh dưới chân cầu sẽ đưa tôi về một phương trời khác, hay sẽ nuốt chững tôi vào ḷng, rồi vẫn thản nhiên trôi chảy và liền lặn như xưa. Khuya nay nếu ghe tôi ch́m giữa biển, lặng lẽ không ai hay như một chiếc lá khô rơi giữa đêm rừng già th́ cuộc đời trên cầu vẫn thản nhiên trôi chảy, nước sông vẫn một ḍng xăm xăm từ nguồn ra biển, chỉ có tôi là sẽ vĩnh viễn xa cầu. Tôi vẫn đi men theo thành cầu, tay không rời song sắt cho đến khi cầu nối qua đường. Phút đó tôi không cầu nguyện nhưng nhớ lời mẹ dặn vào những ngày mồng Một Tết ra đ́nh làng cầu lộc: “Con rờ tay lên chân tượng Thần Hoàng rồi áp tay lên trán để cho được chân cứng đá mềm”! Tôi áp tay ḿnh lên trán. Chút dư cảm lành lạnh từ thanh sắt trên thành cầu truyền qua ḷng bàn tay làm cho cảm giác hâm hấp mồ hôi trên trán tôi dịu lại. Tôi lạ lùng tự hỏi như bà mẹ quê v́ thương con nên đến gần mê tín: “Có chăng một chút ‘ân điển’ kiểu thần hoàng từ chiếc cầu tuổi trăm năm ấy đă cho tôi trước lúc ra đỉ!”
Ngữa Nón Trông Cầu
Mười năm sau về lại Huế, tôi không được qua cầu mà chỉ được đứng từ xa để nh́n v́ cầu đang được tu sửa. Chiếc cầu như người bị thương được băng bó trong lớp dàn giá toàn sắt thép. Thỉnh thoảng có ánh đèn hàn lóe lên soi bóng những người thợ đang làm việc trên cầu.
Tôi lại khăn gói ra đi khi chiếc cầu chưa "xuất viện"!
Và năm năm sau tôi lại trở về Huế. Cầu Trường Tiền đă được tu sửa hoàn thành. Lại được đi trên cầu vào một buổi chiều Hè có gió Nồm rười rượi thổi qua cầu. Tôi muốn nhẩn nha vừa đi bộ, vừa đặt tay men theo bờ thành hành lang phụ của cầu, nhưng "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo" không c̣n khoảng trống thơ thẩn cho những mái tóc rối gió và những tà áo dài phất phơ nữa. Trên chiếc cầu mới sửa, đă lên cầu là phải trôi theo ḍng người và xe ngựa. Những "điểm hẹn" ph́nh rộng ra trên cầu đă biến mất, nhường lại cho một hành lang thẳng tắp như đường rầy xe lửa, chạy miệt mài không một chút bâng khuâng mơ mộng. Nh́n lại gịng xe cộ đang di chuyển luân lưu giữa cầu, tôi bỗng cảm thấy một sự ngăn cách rạch ṛi đến xa lạ. Sự ngăn cách rơ ràng đến từ bốn ống thép thô như dây cương bó chặt cái đầu ngựa thon hiền. Hai hàng ống thép chạy dài lạc điệu suốt dọc thân cầu, khiến cho ḷng cầu hẹp lại và bóng dáng chiếc cầu mang cái vẻ ăn chắc mặc bền của con nhà trưa ruộng... Hoàng Thiếu Phủ trong "Chuyện Một Chiếc Cầu Đă Hỏng" kể chuyện rằng, sau ngày cầu sửa xong và lưu thông trở lại, đêm đêm từ vạn đ̣ Mụ Mới vang lên tiếng ḥ buồn bă của những người "Ngữa nón trông cầu... " như để buồn cho vẻ trang đài của cầu Trường Tiền ngày xưa nay đă mất:
Qua cầu ngữa nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.
Người dân Huế nhận ra cầu Trường Tiền ngày nay đă mất đi mười sáu điểm duyên dáng một thời, trong đó, có màu cầu nhũ bạc ngày xưa nay đă thay bằng mầu trắng tro buồn, dù đă có sự phối hợp của tập đoàn Baudin Chateauneuf và hăng sơn Préziofo-Vitico của Pháp!
Theo thống kê th́ 40 tỷ đồng Việt Nam đă sử dụng trong suốt 4 năm để khôi phục cây cầu. Với 200 tấn sắt thép từ Pháp chở sang và 700 tấn sắt thép từ Hà Nội chở vào, 15 vạn con ri-vê, 45 vạn lỗ khoan "in như riến" và một đội ngũ chuyên viên cầu đường ưu tú nhất nước đă được đầu tư vào việc sửa cầu Trường Tiền. Nguyễn Khắc Phê viết trong "Những Chặng Đường Từ Huế" đă minh họa một cách thú vị rằng, nếu dùng loại bạc 1000 đồng Việt Nam kết lại sẽ có được một diện tích 350 ngh́n mét vuông, đủ để phủ kín sáu nhịp cầu đến 100 lớp! Và xúc động nhất là có ba người anh em chuyên viên kỹ thuật xây dựng cầu đă vĩnh viễn nằm xuống giữa ḍng sông Hương, dưới sáu nhịp cầu. Đó là các anh Nguyễn Văn Chiến, 24 tuổi, quê ở Thanh Hóa; anh Hiệu, 22 tuổi, quê ở Quảng B́nh; anh Tạ Văn Dũng, quê ở Thái B́nh. Những người Huế và khách qua cầu nghiêng ḿnh tưởng niệm và cám ơn các Anh.
Sự hy sinh tính mạng và sự đóng góp công sức, tài sản cho một công cuộc bao giờ cũng đáng trân trọng tri ân. Nhưng nét thẩm mỹ và nghệ thuật có đường bay riêng của nó. Nét phất tài hoa của Lư Bạch, ḍng lục bát uốn lượn đẹp năo nùng của Nguyễn Du, đường cong và không gian vời vợi trong nghệ thuật tạo h́nh tuyệt mỹ của Michelangelo... không thể tính bằng khối lượng của bao nhiêu tỷ con chữ, bao nhiêu triệu viên gạch, bao nhiêu khối tiền bạc, bao nhiêu số thời gian và công sức đă đổ ra để thành những tác phẩm thiên tài được.
Công ty Eiffel đă xây dựng bao nhiêu trăm chiếc cầu trong những vùng đất thuộc địa của Pháp từ những ḥn đảo vùng Thái B́nh Dương đến khắp các châu lục địa. Nhưng theo Charles Lancaster, cầu Trường Tiền vẫn là một công tŕnh kiệt tác lâu bền nhất. Bên cạnh kỹ thuật ưu việt đương thời đă tạo nên những đường nét duyên dáng và độc đáo cho chiếc cầu, nhờ khung cảnh thanh tú của sông Hương, vị trí kỳ vĩ giữa thiên nhiên, nếp sinh hoạt hài ḥa và ḷng trân trọng của người bản xứ mà chiếc cầu có một sức sống diệu kỳ. Chiếc cầu, ḍng sông, thuyền bè, người qua lại và ngay cả dáng cô tịch của chiếc cầu lúc về đêm hay vẻ ảo ảnh sương khói của nó lúc về sáng đă tạo ra một vẻ thu hút vượt ra ngoài khái niệm b́nh thường. Chiếc cầu không chỉ là một phương tiện qua sông mà c̣n mang nét duyên dáng của chiếc lược ngà tô điểm cho ḍng sông chảy dài như mái tóc xanh.
Ảo ảnh và tâm ảnh sẽ ḥa thành một khi đường phân ranh giữa thực và mơ tan loăng trong một điệu ḥ cất lên từ quá khứ.
Rồi cũng như chàng Do Thái vác thập tự giá mà đi cho hết một đời cứu chuộc, tôi mang tâm ảnh của cầu Trường Tiền mà đi. Chiếc cầu trong tôi bỗng thành một sự hiện hữu vô h́nh. Khi buồn nhất tôi lại lục lọi ngăn kéo hoài niệm của những ngày vui trên cầu, cố lấy một tâm ảnh liền lặn ngày xưa mà trám vào những đường nứt nhỏ giữa hoàng hôn và bóng tối. Nhưng làm sao trám nổi biển phân ranh của đại dương đă chia cách đôi bờ bên nớ, bên ni?
Trong sự thăm thẳm tận cùng của lặng yên, tôi lại cảm nhận được sự liền lặn giữa đôi bờ. Có một con đường nửa như hư ảo mà nửa như rất thật, lặng lẽ nối chiếc cầu, ḍng sông, và biển cả thành một dăi ngân hà. Ḍng sông trắng phau ấy không vắt ngang vũ trụ mà cũng chẳng ở dưới ḷng đất, nó ở trong sâu thẳm của tâm hồn. Tôi chợt nhận ra ḍng sông đó trong một chiều của "Ngày Mẹ Hiền" (Mother’s Day) cuối mùa Xuân ở Cali – khi tất cả những nhánh cây đều có búp măng mà tôi th́ không c̣n Mẹ: Ḍng sông kia là dư vị của ḍng sữa mẹ ngày xưa khi tôi c̣n bé, quyện với dư âm của tiếng chuông công phu từ một ngôi chùa cổ nào của Huế từ thuở học tṛ. Ḍng sông hết một đời người sẽ trôi về vĩnh cửu, chợt thật gần mà cũng chợt rất xa.
1. Câu ca dao: "Đường vô xứ Huế quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ" từ trước đến nay PAK chỉ nghe và đọc thấy nhiều là "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh..” thôi.TAX kiểm tả lại xem.
2. Câu ca dao: "Ru em cho thét, cho muồi Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu Mua cau Mam Phổ, mua trầu chợ Dinh Chợ Dinh bán áo con trai Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim"
Về chữ “thét” nếu PAK không nhầm th́ vùng B́nh-Trị-Thiên dùng chữ này đồng nghĩa với “ngủ” nên câu đầu phải viết là: “Ru em em thét cho muồi. Để mạ đi chợ …”. C̣n “Mam Phổ” th́ h́nh như không chính xác, có lẽ là “Nam Phổ” th́ đúng hơn. TAX xem lại.
Thứ tư là nhiều bài của các bạn bổ sung các câu ca dao về Huế không chính xác. Ví dụ như câu: “Thương chồng nấu cháo le le. Nấu canh điên điển, nấu chè hạt sen” không phải của Huế mà của vùng đồng bằng Nam Bộ. Vùng này th́ mới nhiều con le le và mùa nước nổi th́ cây điên điển trổ bông vàng ruộm. Sen th́ khỏi nói v́ Đồng Tháp Mười mà. Chị BongLai và mọi người thử t́m hiểu thêm xem.
Thứ năm là chuyện cầu Trường Tiền 6 vài 12 nhịp. Mọi người có thắc mắc về chữ “vài”. Theo PAK được biết th́ cầu Trường Tiền nguyên thuỷ có 12 nhịp cầu cong uốn lượn phía trên và có thêm 6 h́nh bán nguyệt nằm ngang bên ngoài cầu. H́nh bán nguyệt này dùng để các o bán hàng hay khách thập phương bộ hành nghỉ chân và chính cái h́nh bán nguyệt này được gọi là “vài”. Nó cũng chính là “điểm hẹn” trong câu “Trên chiếc cầu mới sửa, đă lên cầu là phải trôi theo ḍng người và xe ngựa. Những "điểm hẹn" ph́nh rộng ra trên cầu đă biến mất, nhường lại cho một hành lang thẳng tắp như đường rầy xe lửa, chạy miệt mài không một chút bâng khuâng mơ mộng.” trong bài “Tâm Ảnh Trường Tiền” của Trần Kiêm Đoàn mà TAX đă gửi lên. Và cũng theo bài TATT của tác giả th́ các bạn cũng biết là sau khi sửa lại cầu Trường Tiền đă mất đi 6 vài mà chỉ c̣n lại 12 nhịp như bây giờ mà thôi.
Thứ sau là với TAX (của Bùi Giáng), để đáp lại tấm t́nh, PAK gửi tặng TAX
GỬI HUẾ
Dạ thưa! Xứ Huế bây giờ Vẫn c̣n núi Ngự bên bờ sông Hương (Bùi Giáng)
Dạ thưa! Xứ Huế bây giờ … Câu ca buông lửng đôi bờ Nắng nhạt màu chiều hôm ấy Bạn về gió cũng bơ vơ
Dạ thưa! Xứ Huế bây giờ … Vẫn c̣n thơm hương tóc rối Lá bay đường vào Đại nội Ngang trời dệt mảnh ngu ngơ
Mất mấy hôm đi t́m cuộn phim VĐMT để xem lại và kiểm tả mấy điểm thắc mắc PAK đưa ra. Tuy vừa rồi không được PAK khen "phổng mũi" nhưng vẫn thấy vui lắm khi biết PAK đă đọc kỹ bài của TAX và của các Anh Chị khác. Trả lời tuần tự các câu hỏi của PAK nha:
1. Câu ca dao: "Đường vô xứ Huế quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ", là đúng với nguyên văn trong phim tài liệu. Riêng câu: "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh" th́ có một thời gian dài TAX đinh ninh đây là thơ của "cụ Hồ".
2. Câu ca dao:
"Ru em cho thét, cho muồi Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu Mua cau Mam Phổ, mua trầu chợ Dinh Chợ Dinh bán áo con trai Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim"
Hai chữ "Nam Phổ" PAK trưng dẫn là đúng, TAX đă đánh máy sai. Thay v́ "kiểm tả", TAX đă tự "kiểm thảo" mấy đầu ngón tay bằng mấy cái khẻ tay thật đau, hy vọng lần sau sẽ cẩn thận hơn.
Riêng c̣n câu: "Ru em cho thét, cho muồi...", v́ đă được nghe mẹ hát không biết bao nhiêu lần nên TAX chắc chắn lắm với mấy chữ "cho thét, cho muồi". Có hỏi mẹ TAX th́ được trả lời đó chính là nguyên văn của người xưa từ bao đời để lại. Đối chiếu với đoạn người thiếu phụ ru con trong phim, câu ca dao nghe được vẫn là "Ru em cho thét, cho muồi". Cũng nhờ thắc mắc của PAK mà TAX có dịp xem kỹ lại đoạn phim ru con này. Đứa bé được nằm trong một cái "nôi" h́nh dạng như một cái thúng tṛn có bắt 4 sợi giây nơi bốn góc thúng treo tḥng xuống từ xà nhà, c̣n người mẹ th́ nắm gọn bốn sợi giây phía trên miệng thúng trong ḷng bàn tay của ḿnh đưa tới đưa lui theo nhịp ru. Dáng người mẹ lom khom, nghiêng nghiêng, trông thật thương.
Thắc mắc thứ tư của PAK, v́ chưa có dịp kiểm chứng lại nên TAX không dám mạo muội trả lời. Rất mong có nhân vật nào của phố Rùm am tường về ca dao Nam Bộ giải thích thêm giúp TAX điều này.
Thứ năm là chuyện cầu Trường Tiền 6 vài 12 nhịp. Giải thích của PAK về chữ "vài" là khoảng ph́nh rộng ra h́nh bán nguyệt nằm ngang bên ngoài thành cầu, e là không giống với ư trong bài viết Tâm Ảnh Trường Tiền của tác giả Trần Kiêm Đoàn. Khi miêu tả các "vài" của cây cầu, tác giả cho ngươi đọc như nh́n thấy được đường cong uốn lượn cao vút, lên xuống trong không trung, trong khi "điểm hẹn" mà PAK nói đến lại nằm ngang với tầm mắt. Xin phép được trích vài đoạn trong bài viết TATT để PAK cùng đọc lại nhé:
"Vài cầu đang ngự trên cao chót vót tận đọt tre lá ngà gần mây trắng, thấp dần xuống để soi ḿnh trên sông và từ từ vút cong lên trở lạị Tôi đếm thầm những cây quạt trắng khổng lồ ḿnh đă đi qua: Một, hai, ba, bốn, năm, sáu trận băo năm Th́n 1904 đă xô ngă bốn nhịp cầu "
"Tôi mơ hồ liên tưởng tới đường cong như cánh cung của cặp rồng uốn lượn trên nóc đ́nh làng để ví với dáng cong cong thon thả của những vài cầu lên xuống. "
"Cái ṿm trắng bạc có một chút kiêu sa phù phiếm. Mỗi bận qua cầu tôi có cảm giác như đi qua một đám mây phù du, một đoạn đường sương phủ hay đi vào một mối t́nh đầu không dài lâu; hoặc bắt đầu một cuộc đời lăng tử cũng không biết chừng."
"Tôi ngước nh́n lên vài cầu cao h́nh cánh quạt trên đầu và khung trời xanh trên cao như một sự che chở "
Khi TAX hỏi thân phụ tại sao không gọi khoảng ph́nh rộng ra h́nh ṿng cung nằm ngang ngoài thành cầu là "vài" th́ ba TAX giải thích tại nó không có cái đỉnh, và khi TAX xin ba cho một ví dụ dùng chữ vài ở những trường hợp khác th́ ba TAX nói ngoài Huế hay gọi mái nhà lên xuống của một căn nhà có nhiều gian là "vài". Theo giả thuyết của riêng TAX, vài là cách phát âm trại ra từ chữ ṿm của các người mẹ ru con ngày xưa.
Dù sao đây cũng chỉ là ư kiến riêng tư, sẽ rất hoan nghênh những ư kiến đóng góp khác từ mọi người.
Thứ sáu, là lời cảm tạ của TAX đối với tấm thịnh t́nh thật quư của PAK giành cho. Bài thơ của PAK, gợi nhớ đến cả một trời kỷ niệm của những con dân Huế xa xứ. Rất vui được gặp lại PAK và hy vọng tương lai PAK sẽ ghé chơi phố Rùm thường xuyên hơn. Tra Loi cua : TaAoXanh
tựa đề cho cuốn sách cùng tên của Ỷ Lan Penelope Faulkner.
Quê Nhà
Cuối năm, ṭa soạn quá nhiều việc, Ỷ Lan không được về thăm nước Anh, thăm “quê nhà”. Thường thường cứ đến Noel, Ỷ Lan đều về ăn “Tết Tây” với cha mẹ và gặp lại những bạn học cùng lớp hồi xưa. Những ngày cuối năm là những ngày Ỷ Lan thích nhất. Những ngày ấy, bên Anh có không khí rất vui vẻ, đợi chờ. Ai nấy đều sửa soạn từ bao nhiêu tuần trước, lo làm bánh kẹo, lo kiếm quà, mua sắm áo quần đẹp, rồi nôn nức đợi Noel đến. Dù nghèo tới đâu, mỗi gia đ́nh tự t́m ra cách cho ngày đó thật vui, nhất là cho các em thiếu nhị Ở Pháp, Ỷ Lan không cảm được không khí nàỵ Vào đêm Noel, kẻ có tiền, th́ đi ăn tiệm, nhảy “đầm” tới sáng, người không tiền đành cho Giáng Sinh trôi quạ Nhớ những năm Quê Mẹ mới ra đời, trong ṭa soạn ai cũng nghèo, v́ tất cả phương tiện và sức lực đổ hết vào cho tờ báọ Có nhiều lúc đói quá, đi ngang nhà của người Pháp trong xóm, nghe mùi canh thịt hầm (pot-au-feu) đang nấu trong bếp bay rạ Ỷ Lan đứng dưới của sổ ngửi hương vị thơm phức ấy, thèm hết sức. Thời đó, gần cuối năm, không có tiền mua quà tặng cho các cháu của anh chị Áị Ỷ Lan nghĩ ra một cách thầm lén, rút bớt tiền mua xăng của ṭa soạn giao cho những lần di chuyển đi giao hàng in cho khách. C̣n nhớ mỗi lần, chỉ đủ tiền đổ xăng nhỏ giọt, ṭa soạn trao cho 10 F, Ỷ Lan mua 9 F xăng, giữ lại 1 F, dồn lại mua vài món quà mọn cho các cháụ Ỷ Lan c̣n nhớ măi khuôn mặt sáng lên của các cháu, lúc nhận các món quà đơn sơ kia, gói kỹ rất lớn (!) trong loại giấy màu lấy ở nhà in. Nghĩ tới quê nhà, Ỷ Lan bỗng nhớ đến anh chị em người Việt giờ này đang sống cảnh xa nhà. Quê nhà của Ỷ Lan thật gần, mỗi khi muốn về, quê nhà vẫn y nguyên ở đâu đó. Mỗi bận muốn về, Ỷ Lan chỉ cần ra ga Victoria ở Luân Đôn, một nhà ga Anh quốc, giống hệt mọi nhà ga trên thế giớị Nói như “Quốc văn giáo khoa thư”, “nhà ga là nơi tàu đậu….” Chỉ có một điều riêng biệt khó tả, là sự xúc động trong ḷng Ỷ Lan. Vừa bước ra khỏi ga, thấy ngay một thứ hạnh phúc không lời, thứ hạnh phúc đặc biệt mà đơn sơ cho những kẻ nào được giẫm chân trên đất nước quê hương ḿnh. Đây là một may mắn vô giá.
Sống gần người Việt Nam, chọn chung đường tranh đấu cho Việt Nam, Ỷ Lan cũng thấy Việt Nam là quê hương “thứ hai” của ḿnh, một quê hương trong mộng. Nhiều người hay nói , chắc kiếp trước Ỷ Lan mắc nợ với người Việt, nên kiếp này phải “lao động” thật khổ để trả nợ!! Lại có người xem Ỷ Lan như kẻ đồng hương! Một hôm Ỷ Lan đi ăn Tết ở Sarcelles với đồng bào tỵ nạn, có một anh thanh niên, da đen như người Phi châu, nghe Ỷ Lan nói tiếng Việt. Anh ta chạy đến, và vồn vă hỏi Ỷ Lan:” Ủa! chị lai hả ? Lai xứ nào ? Mừng quá, em cũng lai như chị vậy đó!!”
Mỗi lúc các bạn Việt Nam xem Ỷ Lan như người Việt, Ỷ Lan cảm động lắm, và rất hănh diện để “làm người Việt Nam”.
Nhưng nhiều khi cũng đau khổ lắm! Ỷ Lan không bao giờ quên được buổi tối được mời ăn cơm tại nhà chị Hà Vô Vi với các anh chị trong ṭa soạn. Chị Vi là người Huế, đẹp và sang trọng, từ áo quần, tóc tai, trang điểm tới duyên dáng. Chị rất lịch sự, nhiều khiếu thẩm mỹ, và dĩ nhiên, làm bếp rất ngon. Giống nhiều đàn bà người Huế, chị Vi ngang tàng, không sợ ai hết. Nghe chị kể lại cốt cách chị ăn nói đối phó với cán bộ Cộng sản bên nhà, Ỷ Lan nghĩ rằng chỉ cần vài chục phụ nữ như chị Vi, th́ chế độ Cộng sản sẽ sụp ngay!! Bữa ăn tối đó, chị Vi đăi bánh bèo và tôm chấỵ Chị làm rất khéo và ngon. Ai cũng vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ. Nhân đấy, chị Vi kể chuyện rằng, chị có mời vài “con đầm” trong sở về nhà chị ăn bánh bèo, nhưng chị chê các cô đầm nầy không biết ăn nước mắm!! Thôi bọn mi đừng có ḥng ta mời tới nhà ăn bánh bèo một lần nữa mô!!!”. Ỷ Lan nghe nói, sợ chị cũng chê ḿnh “đầm” không biết ăn nước mắm, bèn kéo chén nước chấm gần nhất, đổ thật nhiều trên dĩa bánh bèo của ḿnh, cốt ư cho chị Vi thấỵ Rủi thay! Chén nước mắm đó chị pha đặc biệt cho các bạn người Huế trong Quê Mẹ. Cay ơi là cay!! Vừa nuốt vào tới miệng, Ỷ Lan không dám hét lên – sợ bị chị Vi chê, không mời ăn lần khác – đành ngồi yên như con gái nhà lành. Nuốt thong thả bánh bèo, như nuốt từng ngọn lửa cháy vào cổ. Mỗi miếng bánh bèo lúc đó, là một viên than hồng nóng hực. Sau đó, uống bao nhiêu nước lạnh cũng không dập tắt được ngọn lửa này . Tuy nhiên, Ỷ Lan khá thành công, v́ chị Vi không hề khám phá ra sự đau khổ của Ỷ Lan. Tối hôm đó về nhà, miệng và cổ Ỷ Lan đau rát, nhưng trong ḷng rất hănh diện đă thi hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ của ḿnh tới cùng, và đă làm “người Việt Nam!”.
Bao nhiêu h́nh ảnh c̣n in nguyên trong trí, sau bao nhiêu năm làm việc cùng cùng người Việt. Có những chuyện vui như chuyện chị Hà Vô Vi, có những h́nh ảnh khác, những chuyện Vượt Biển do anh em mới qua kể cho nghẹ Họ kể một cách b́nh thường, mà ngồi nghe, tâm thần ḿnh rúng động, ḷng ḿnh dấy lên niềm thương tiếc cho đất nước và dân tộc này, bị chà đạp quá mức, sau bao nhiêu thế kỷ sống với chiến tranh. Chiến tranh đến từ nước ngoài, và chiến tranh giữa những người anh em cùng ṇi giống! Ỷ Lan c̣n nhớ măi khuôn mặt hồn nhiên của một em bé Việt Nam, khoảng 12 tuổi, vượt biển một ḿh, v́ cha mẹ không đủ tiền ra đi cả gia đ́nh, cha mẹ dành dụm tiền bạc cho một ḿnh em đi, v́ sợ cho tương lai đen tối của em nếu c̣n ở lại trong nước chịu cảnh giáo dục độc tài ấỵ Hiện nah em sống tại Pháp. Hôm Ỷ Lan vào thăm em ở trại tiếp cư, em vừa hồn nhiên vừa lo lắng hỏi Ỷ Lan:” Chị nh́n em, chị có biết được em đă ăn thịt người không?” Chao ơi, em bé đó sẽ suốt đời giữ măi lấy cảnh rùng rợn man rợ ấỵ Và Ỷ Lan cũng sẽ suốt đời không bao giờ quên mặt mày h́nh dáng em. Từ đó, Ỷ Lan tin rằng không có một Người Vượt Biển nào lại có thể quên đi những ngày ḿnh lênh đênh trên đại dương, với những mơ ước và nguyện cầu ǵ. Không có một người Việt nào lại đem ḷng bỏ quên đồng bào của ḿnh đang bị đau khổ, tù đày nơi quê nhà, hay đang trên đường ra đị Chắc không ai có thể ngồi yên mà không đóng góp một phần, dù thật nhỏ, để cứu sống đồng bào của ḿnh trong lúc nguy nan thập tử nhất sinh nàỵ Con đường tranh đấu c̣n dài, rất dài …. nhưng đâu phải không có đường ra ?